Có nghĩa là chính quyền cộng sản Việt Nam hoàn toàn biết ta đã mất, đang
mất những gì. Ở đây, chỉ phân tích hai ý trong lời vỗ về, hứa hẹn của
công an cộng sản Việt Nam.
Họ khẳng định ta (chỉ chính quyền cộng sản Việt Nam) yếu, Trung Quốc
mạnh, phải biết lùi, biết nhún. Tức các ông cầm quyền không hề hèn,
không hề “bán nước” như một số nhân vật đối kháng hay những trang báo
“lề dân” nhận định. Mà họ đang dùng chiến thuật “nghị hòa để cứu nước”,
hoặc “lùi một bước tiến ba bước”. Hay hiểu nôm na rằng, cứ để đối phương
“tạm thời” cướp và hả hê với chiến thắng, ta “ngấm ngầm” chuẩn bị lực
lượng cho lớn mạnh, chờ khi có cơ hội, nhân lúc địch thiếu cảnh giác, ta
tấn công đòi lại những thứ chúng đã cướp (Thế là hoàn thành sứ mệnh một
cách đơn giản). Chiến thuật này là một trong những kế dụng binh được
một số mưu lược gia thời cổ áp dụng khá thành công.
Xin mượn một chuyện cổ để minh họa và để “ôn cố tri tân”:
Khi Việt Vương Câu Tiễn đại bại trước đại binh của Ngô Vương Phù Sai,
ông này đã phải tính kế sách “nghị hòa cứu nước”, chấp nhận sống thân
phận con tin ba năm ở nước Ngô, chịu đủ thứ gian khổ, tủi nhục. Trong
cuốn “Những mẩu chuyện lịch sử Trung Quốc” có đoạn viết: “Vợ
chồng Câu Tiễn mặc y phục tội phạm, nước mắt giàn giụa, quỳ trước Ngô
Phù Sai ngỏ ý đầu hàng và một dạ trung thành với nước Ngô”. Trong
thời gian làm con tin, có hai nỗi nhục mà Câu Tiễn đã nếm trải, khiến
bản thân ông ta phải than rằng “không còn muốn sống”. Lần thứ nhất, đích
thân ông phải đi bộ, dắt ngựa cho Phù Sai cưỡi đi chơi trước sự giễu
cợt, khinh bỉ của dân chúng nước Ngô. Lần thứ hai, ông phải “dùng lưỡi
nếm phân” để bắt bệnh cho Ngô Vương. Mọi việc làm của ông ta đã lấy được
sự tin tưởng tuyệt đối của Ngô Vương. Cuối cùng, sau ba năm, Câu Tiễn
thoát thân phận nô lệ, trở về cố quốc.
Về nước, Việt vương Câu Tiễn đẩy mạnh việc xây dựng quốc gia, đưa nước
Việt tiến lên con đường giàu mạnh, tích cực chuẩn bị chiến tranh để tấn
công nước Ngô, trả mối nhục quốc thể. Sau khoảng mười năm chuẩn bị từ
khi về nước, Câu Tiễn đã tiêu diệt được nước Ngô, thu về vô khối chiến
lợi phẩm cho nước Việt, bản thân Phù Sai phải tự vẫn vì cầu hòa bất
thành.
Trở lại chuyện bên ta. Bản Hiến Pháp nước CHXHCN Việt Nam (thời Lê
Duẩn), trong phần “lời nói đầu” đã chỉ đích danh Trung Quốc là “bọn bá
quyền Trung Quốc” (được hiểu là kẻ thù của Dân tộc). Rõ ràng, chính giới
lãnh đạo cộng sản Việt Nam hơn ai hết hiểu rất rõ dã tâm thôn tính nước
ta về mọi mặt của Trung Cộng. Nhưng rồi, “nhận thức” trên của lãnh đạo
cộng sản Việt Nam đã thay đổi, thể hiện bằng việc bỏ đi cụm từ “bọn bá
quyền…” trong bản hiến pháp năm 1992. Tệ hại đến mức, đến nay, kẻ thù
của Dân tộc nghiễm nhiên trở thành “ông bạn quý” lấp lánh mười sáu chữ
vàng với tinh thần bốn tốt: “láng giềng tốt, đ...tốt, ...tốt, ...tốt”.
Những khẩu hiệu, cụm từ hoa mỹ được nở rộ trên môi trên miệng của các
vị lãnh đạo cộng sản Việt Nam ở bất cứ nơi đâu, trong bất kỳ thời điểm
nào khi nói đến Trung Quốc. Cảm thấy như thế còn chưa lột tả hết thiện
ý, các báo đài cùng cả hệ thống truyền thông, ra rả ca ngợi mối tình
thủy chung son sắt (!) của hai nước Việt- Trung. Họ nhồi cho con nít
cũng phải thuộc nằm lòng, còn người lớn phải... chướng bụng mửa ra.
Nhận thức của “ta” thì thay đổi, vậy nhận thức của “địch” có thay đổi
cho tương xứng với mười sáu chữ vàng hay không? Người viết bài này không
có tham vọng “thống kê” các tội ác, hành động của Trung Cộng trong đó
bao gồm cả sự thỏa thuận, tiếp tay của phía Việt Nam trong chính sách
xâm chiếm của họ vì đã có quá nhiều nhà nghiên cứu, bậc trí thức hay
những người quan tâm đến vận mệnh của đất nước phân tích, đánh giá và
phản ánh. Dưới đây, chỉ xin nhắc lại một vài sự kiện, lấy mốc thời gian
từ năm 1958 đến nay để minh họa cho ý kiến của mình.
Năm 1958, ông Phạm Văn Đồng đã đại diện cho ĐCS Việt Nam ký bản Công Hàm
chấp nhận và tán thành Bản tuyên bố của ĐCS Trung Quốc về bề rộng lãnh
hải của Trung Quốc bao gồm Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam.
Năm 1979 Trung Quốc đem quân sang “Dạy cho Việt Nam một bài học” gây ra cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu.
Tháng ba năm 1988, đánh chiếm thêm 7 đảo và bãi đá của ta ở Trường Sa.
Hiệp định biên giới trên đất liền VN-TQ tháng 12/1999 và hiệp định phân
định lãnh hải VN-TQ một năm sau đó đã làm mất gần một ngàn cây số vuông
dọc biên giới Việt-Trung. Thác Bản Giốc và Ải Nam Quan cùng một phần
Vịnh Bắc Bộ đã được cống hiến cho Bắc Triều.
Năm 2007, xây dựng khu hành chính Tam Sa để quản lý Trường Sa và Hoàng
Sa của ta. Liên tiếp những hoạt động xâm chiếm công khai được phía Trung
Quốc thực hiện ngang nhiên.
Do lú lẫn tình nguyện tròng cổ vào cái xiềng XHCN, phía “bạn” còn rất dễ
dàng thôn tính cả các lĩnh vực từ chính trị, văn hóa đến kinh tế...
Đồng bào trong nước cũng như cộng đồng người Việt tại hải ngoại đã dấy
lên làn sóng quyết liệt phản đối nhà cầm quyền Trung Quốc và cảnh tỉnh
nhà cầm quyền Việt Nam nhưng suốt mấy năm qua, chính quyền VN không
những không lấy lại được những gì đã mất mà còn tiếp tục để Trung Quốc
lấy đi những gì mà chúng ta còn lại! Họ không những không trân trọng
những tiếng nói yêu nước mà còn gia tăng đàn áp bằng cách bỏ tù, sách
nhiễu, khủng bố, đánh đập... những ai dám động chạm đến “ông bạn vàng”
của họ.
Rõ ràng mấy ông lãnh đạo cộng sản Việt Nam không phải đang dùng kế “nghị
hòa cứu nước”, chịu nhục trước mắt (chấp nhận cho bọn quan chức cấp
thấp Trung cộng tiếp cấp cao cộng sản Việt Nam) để báo thù sau này. Câu
Tiễn xưa chỉ giả vờ thuần phục (tạm thời) để nuôi kế báo thù. Ông ta
cũng chỉ mất khoảng một thập kỷ là hoàn thành sứ mệnh vì đã có kế hoạch
định sẵn. Một mình Câu Tiễn chịu nhục, trong khi cả dân tộc đồng lòng,
chờ mệnh lệnh của ông ta tấn công đánh giặc.
Mấy ông công an tự xưng đại diện cho đảng, nhà nước hứa với tôi sẽ lấy
lại được những gì đã mất nhưng, hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, đất vẫn mất,
biển đảo vẫn mất, con dân Việt Nam vẫn phải chết oan ức trên biển của
Tổ Quốc mình, nỗi nhục quốc thể cả Dân tộc vẫn phải mang nặng. Đến bao giờ...! Nhìn sang hai nước trong khu vực là Thái Lan và Cam-pu-chia, thấy thẹn và... thèm.
Tôi không định cổ xúy cho xung đột, cho chiến tranh. Cũng không định
bình luận hay kết luận chủ quyền của ai tại ngôi đền tranh chấp Preah
Vihear. Nhưng ít ra, lãnh đạo của cả hai quốc gia này đều hiểu rõ giá
trị tinh thần mà họ mang lại cho người dân. Công dân của họ cảm thấy yên
tâm khi thấy mình thật sự được tôn trọng và được bảo vệ. Hoặc chí ít,
không bị chính quyền coi là kẻ chống đối nếu hô: “Preah Vihear là của
Thái Lan”, “Preah Vihear là của Cam-pu-chia”. Ngôi đền Preah Vihear có
thể mang nặng giá trị về tín ngưỡng, tinh thần hơn là giá trị kinh tế,
nhưng cả Thái Lan lẫn Cam-pu-chia đều không muốn mất. Điều gì khiến hai
nước tranh chấp kéo dài suốt cả thế kỷ qua và gia tăng trong những năm
gần đây? Tất nhiên có nhiều nguyên nhân mà một công dân ở một nước láng
giềng như tôi, hạn chế về thông tin cũng như hiểu biết có hạn không thể
tường tận được. Song cũng xin mạo muội mà bày tỏ suy nghĩ đơn giản rằng:
Phải chăng, lãnh đạo của họ muốn ngăn chặn những thứ sẽ mất trong tương
lai khi hai bên đều nhìn thấy nguy cơ nếu để mất ngôi đền? Đứng trước
sự lựa chọn khó khăn, không để đối phương “được đằng chân lân đằng đầu”,
dẫn đến nhiều hệ lụy về sau đời con cháu gánh chịu. Không vô lý khi cho
rằng, giới lãnh đạo hai nước đã chấp nhận xung đột “tạm thời”, hòng tìm
kiếm cơ hội cho cả hai bên. Bởi vấn đề này đã được đưa lên Tòa án Quốc
tế vì Công lý. Khi binh sĩ hai bên đã nã súng vào nhau, lập tức cả phía
Thái Lan lẫn Cam-pu-chia đều tiến hành các biện pháp ngoại giao nhằm
ngăn chặn chiến sự leo thang.
Trong một thế giới bị chi phối bởi những mối quan hệ đa phương, song
phương phức tạp, cộng thêm các vấn đề về chủ quyền và lợi ích Dân tộc,
giải pháp cho tất cả các bên liên quan rất khó khăn nhưng không phải
không thực hiện được. Điều này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, quan
trọng nhất là quyết định sáng suốt của nhà cầm quyền. Người lãnh đạo cho
dù có là thiên tài thì ông ta cũng tự làm ngu mình nếu coi thường ý
kiến của người dân, nguy hiểm hơn là coi dân là kẻ thù. Điều đó mang mầm
mống của sự diệt vong.
Người Thái Lan và người Cam-pu-chia không chịu mất ngôi đền với diện
tích nhỏ bé Preah Vihear. Chẳng nhẽ người Việt chúng ta cứ để mất dần
những gì cha ông để lại mà không làm được gì sao?
Ngày hôm nay là tấm hộ chiếu Trung Quốc in hình lưỡi bò, ngày mai có thể
đến lượt hình Tháp Rùa Hà Nội, hay chợ Bến Thành xuất hiện lên đâu đó
trong tấm bản đồ Trung Quốc. Và để đối phó với những tiếng nói yêu nước,
biết đâu trong một chuyến “đi đêm”, lãnh đạo cộng sản Việt Nam lại cầu
cạnh rằng: “Ông anh vừa vừa hoặc cầm chừng cho thằng em nhờ. Bọn dân
ngu khu đen trong nước phản đối ghê quá, em không thể làm ngơ mãi được”. Thế là lãnh đạo Trung cộng đành tặc lưỡi mà rộng lượng phán rằng:
“Thôi chú mày cứ cho bọn ngư dân ra biển đánh cá, anh sẽ tạm thời không
bắn giết gì hết. Nhưng nhớ là phải dẹp ngay bọn to mồm nhé. Phải thiến
hoạn hết chất anh hùng của chúng nó, dạy cho chúng sống kiếp tôi đòi như
các chú ấy. Có như thế, anh mới cứu được chú. Có mỗi thế mà chú mày
cũng không làm nổi”. Cuộc “mặc cả” xong xuôi, bà con ngư dân Việt
Nam ra biển không bị mất mạng (tất nhiên chỉ một thời gian nhất định nào
đó thôi, khi Trung cộng có kế hoạch mới thì coi như lời hứa kia hết
hiệu lực). Lãnh đạo cộng sản Việt Nam sẽ được thể lên mặt với nhân dân
rằng: Đấy là do chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo của ta nên ngư
dân mới được yên tâm ra biển. Thể hiện trí tuệ đỉnh cao của đảng và nhà
nước v.v... và v.v... Bọn “chống đối” không còn cơ hội lên tiếng, bọn
khác đang trên đà nhận thức lại sẽ không có cơ hội nghi ngờ, sẽ phải tin
và khen đảng rối rít. Rồi ra sẽ tự ân hận vì chót nghi ngờ đảng, chuộc
lỗi bằng cách mắng mỏ chửi rủa bọn “phản động”, bọn “gây rối”.
Việt Nam không phải không có hay không còn cơ hội lấy lại những gì của
chính mình. Nhưng phải dựa vào sức mạnh của Dân tộc, dựa vào bằng chứng
lịch sử và Luật pháp Quốc tế chứ không phải bằng con đường “đi đêm” của
lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Chừng nào những người yêu nước còn bị bỏ tù,
chừng nào đảng cộng sản Việt Nam còn cầm quyền thì sẽ có ngày nhân dân
Việt Nam phải sống lưu vong trên chính mảnh đất quê hương của mình. Và
nguy cơ về một Dân tộc lưu vong sẽ thành hiện thực.
Hải Phòng, tháng 12/2012
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Phản Hồi