Kính
gởi:
- Tiến sĩ Heiner Bielefeldt, Báo cáo viên Đặc biệt của
Liên Hợp Quốc.
Đồng kính gởi:
-
Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.
-
Chức sắc và tín đồ các Tôn giáo tại Việt Nam.
Kính thưa Ngài Tiến sĩ
Kể từ khi vị tiền nhiệm của Ngài,
ông
Abdelfattah Amor đến thăm Việt Nam vào năm 1998 với không mấy tiếng vang, nay đất nước chúng tôi lại được đón tiếp
Ngài -với tất cả sự quan tâm của công luận- trong tư cách Báo cáo viên Đặc biệt
của LHQ về tự do tôn giáo hay tín ngưỡng.
Nhà cầm quyền Hà Nội đã mời Ngài đến vì Việt Nam đang là thành viên của Hội đồng
Nhân quyền Liên Hiệp quốc và đang phải trả lời các khuyến nghị của cuộc Kiểm điểm
định kỳ về Nhân quyền. Nhưng nhân dân Việt Nam, đặc biệt là các tín đồ, mong chờ
Ngài đến để tai nghe mắt thấy tại chỗ, viếng thăm gặp gỡ trực tiếp các chứng
nhân đích thực về tự do tôn giáo, ngõ hầu Ngài cũng sẽ trở thành một chứng nhân
trước Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc.
1- Hiệp thông đồng cảm
Trước hết, chúng tôi, các chức sắc ký tên dưới đây, xin bày tỏ lòng hiệp thông
đồng cảm với những khó khăn trắc trở mà Ngài đã gặp phải trong chuyến đi đến
VN, ngay từ ngày đầu tiên ở Hà Nội, dù nhà cầm quyền đã cam kết tuân giữ các
quy định về việc viếng thăm và làm việc tại thực địa của Báo cáo viên LHQ. Việc tiếp xúc một cách bí mật và không bị giám sát của Ngài với các nhân chứng và nguồn tin riêng đã nhiều lần chẳng được tôn trọng. Nhiều người Ngài muốn gặp gỡ lại bị thô bạo ngăn chận, còn một số người đã tiếp xúc chính thức
hoặc riêng tư với Ngài thì đã bị chất vấn, theo dõi, hăm dọa sau đó. Vài buổi gặp gỡ của Ngài với các đại diện tôn giáo đã diễn
ra trong tình trạng căng thẳng, vì có công an bao vây dày đặc bên ngoài. Đáng
tiếc và đáng phẫn nộ nhất là 3 ngày cuối cùng, dự định đi thăm An
Giang, Gia Lai và Kon Tum của Ngài lẫn tùy tùng đã bị gián đoạn, khiến Ngài phải
thốt lên: “Đây là một hành động vi phạm rõ rệt thẩm quyền điều tra của
đặc phái viên LHQ trong chuyến đi thăm bất cứ quốc gia nào.”
Trong một đất nước dưới chế độ Cộng sản độc tài với công an hoàn toàn nằm trong
tay của đảng, chỉ biết đảng chứ không biết dân, thì các sự kiện đáng buồn trên
đây chẳng phải là do “hiểu lầm” từ phía công an như Bộ ngoại giao VN tuyên bố để
tự bào chữa.
2- Chân thành cảm ơn
Chúng tôi chân thành cảm ơn Ngài đã bay qua nửa vòng trái đất để đến thăm đất
nước chúng tôi, và rồi còn lặn lội tới các vùng sâu vùng xa, bất chấp những quấy
rối và đe dọa (như nguy hiểm do Fulro… mà thực ra do công an mật vụ) để gặp cho
được các cộng đoàn tôn giáo mà Ngài đã được báo cáo là đang gặp khó khăn trong
niềm tin của họ. Cảm ơn Ngài đã đến thăm đồng bào H’Mông theo đạo Dương Văn
Mình mà mới đây 5 thành viên của họ đã bị án tù bất công; cảm ơn Ngài đã muốn đến
thăm -nhưng bất thành- phu nhân của mục sư Nguyễn Công Chính vốn đang lãnh một
bản án hết sức nặng nề dù vô tội; cảm ơn Ngài đã muốn đến thăm -song bất lực- một
trong những cộng đoàn tôn giáo bị bách hại nặng nề nhất Việt Nam là Giáo hội Phật
giáo Hòa Hảo Thuần túy tại An Giang; cảm ơn Ngài đã đến viếng thăm cộng đoàn
Cao Đài tại Vĩnh Long (một trong những cuộc gặp gỡ hiếm hoi có đông người), nơi
đó Ngài đã nghe bao sự kiện đau thương và thấy bao tín đồ can đảm; cảm ơn Ngài
đã đến viếng thăm Hội đồng Liên tôn chúng tôi tại Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, tiếc
rằng chúng tôi không đủ mặt vì bị ngăn chận.
Chúng tôi đặc biệt cảm ơn Ngài đã đưa ra một Tuyên bố dài (và rồi đây sẽ là một
Báo cáo dài hơn nữa) về tình trạng tự do tôn giáo tại Việt Nam, với những đánh
giá tổng quát -mà chúng tôi rất tâm đắc- liên quan đến biện pháp luật lệ và
thái độ hành xử của nhà cầm quyền đối với tôn giáo: (1) Thái độ nhìn chung là tiêu cực
và tùy tiện đối với các quyền của các nhóm thiểu số và cá nhân thực hành tôn
giáo ngoài các kênh chính thức đã được thiết lập; (2) Việc thường xuyên viện dẫn một
cách thiếu cụ thể về “lợi ích của đa số” hoặc lợi ích của “trật tự xã hội”; (3) Các điều khoản hạn chế quá
rộng về nhân quyền nói chung và quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng nói riêng; (4) Cách trình bày không rõ
ràng trong Bộ luật Hình sự, cụ thể là Điều 258 liên quan đến việc “lạm dụng” tự
do dân chủ;
(5) Hệ thống tư pháp chưa có cơ chế truy đòi khắc phục pháp
lý đủ hiệu quả mà người dân có thể tiếp cận một cách dễ dàng, v.v…
Xin cảm ơn Ngài đã vạch mặt chỉ tên cái biện pháp đàn áp tôn giáo đầu tiên và
cơ bản nhất là việc đăng ký (nghĩa là xin phép, điều 16 của Pháp lệnh Tôn giáo và tín ngưỡng), theo
đó các
tổ chức tôn giáo cần phải đáp ứng một số
tiêu chí để được pháp luật công
nhận bản chất và cho phép hoạt động. Đây là kiểu đưa các giáo hội vào trong sự
kiểm soát chặt chẽ của nhà cầm quyền để dễ bề công cụ hóa họ. Thế nhưng Ngài đã xác định: “Việc thực thi quyền con người
đối với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, bởi cá nhân và/hoặc trong một cộng đồng
với những người khác, không thể diễn ra phụ thuộc vào bất kỳ hành vi công nhận
hay phê duyệt hành chính cụ thể nào. Là một quyền phổ quát, tự do tôn giáo hay
tín ngưỡng vốn có trong tất cả con người và vì thế có vị thế quy chuẩn cao hơn
bất kỳ một hành vi hay thủ tục hành chính nào… Như vậy, quyền của một cá nhân hay một nhóm đối
với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của họ không bao giờ có thể “được tạo ra” bằng
bất kỳ thủ tục hành chính nào
cả”.
Xin cảm ơn Ngài đã tỏ ra thông hiểu tình trạng các cộng đồng tôn giáo độc lập.
Ngài đã rất chí lý khi cho rằng “điều kiện hoạt động của các cộng đồng tôn
giáo độc lập
là phép thử để đánh giá sự phát triển quyền tự do tôn giáo
hay tín ngưỡng ở VN” cũng như khi nhận xét rằng: “Theo tình hình hiện nay, khả
năng để họ hoạt động như các cộng đồng độc lập rất không an toàn và rất hạn chế;
điều này rõ ràng là một vi phạm đối với Điều 18 của Công ước Quốc tế về Quyền
Dân sự và Chính trị mà VN là một quốc gia thành viên”. Họ
hoạt động trong sự mất an toàn và trong cảnh bị hạn chế thường xuyên chính vì họ
muốn bảo tồn truyền thống, bảo vệ bản chất và bảo toàn sứ mạng tôn giáo của
mình trong một xã hội bị thống trị bởi một chế độ vô thần đấu tranh, một nhà nước
độc tài toàn trị. Chế độ và nhà nước này chỉ muốn công cụ hóa mọi thực thể và mọi
thực lực tại VN để duy trì quyền lực của họ lâu dài. Chính vì thế họ đã lập ra
Mặt trận Tổ quốc để nhốt vào đó những cộng đoàn hay tổ chức tôn giáo chịu lụy
phục họ để an thân mà sinh hoạt (chứ không phải vì “các giá trị tôn giáo và lợi
ích Nhà nước trùng nhau”).
Cho nên tuy là thiểu số -do đó luôn bị sách nhiễu, cấm cản, bách hại, cầm tù-
các cộng đồng tôn giáo độc lập mới là bằng chứng thực sự của việc có hay không
tự do tôn giáo ở VN. Cho rằng một số cá nhân (chức sắc hay tín đồ trong các cộng đồng độc lập này) có “quan điểm riêng” là do tham vọng ích
kỷ, có vấn đề đạo đức,
đi ngược “lợi ích đa số”, thành thử không đáng được lưu tâm, lối lập luận đó là sự vu cáo thô bỉ giáng xuống những con
người đang đau khổ vì niềm xác tín tôn giáo và sự dấn thân cho công lý của họ.
3- Tha thiết kiến nghị
Tuy nhiên, vì Ngài có nói: “Để phân tích một cách toàn
diện về các trường hợp cụ thể, cần có nhiều thông tin hơn nữa để có một bức
tranh đầy đủ về các sự kiện thực tế liên quan và được nhìn từ góc độ của tất cả
các bên liên quan”,
chúng tôi có vài kiến nghị và minh định:
a- Sau khi nói đến vấn đề đăng ký, Ngài đã tỏ ra quan ngại liệu các cộng đồng tôn giáo không đăng ký được có tư cách pháp nhân chăng.
Xin thưa Ngài rằng: dù
có một số cộng đồng tôn giáo đã đăng ký và được nhà nước cho phép hoạt động,
nhưng thực tế, chưa có một tôn giáo và tổ chức tôn giáo nào tại VN có tư cách
pháp nhân cả! Điều này, chính ông Phạm Dũng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ kiêm Trưởng
Ban Tôn giáo Chính phủ, đã phát biểu ngày 3-12-2013: “Hiện nay, vấn đề “thể nhân” và “pháp nhân” của
các tổ chức tôn giáo chưa rõ ràng. Các tổ chức tôn giáo được công nhận, được
đăng ký hoạt động, song lại không có quyền pháp nhân, như các hội đoàn, các tổ
chức phi chính phủ…”.
(http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2013/24790/
Tiep-tuc-doi-moi-cong-tac-ton-giao-dap-ung-yeu-cau.aspx). Đây là một sự cố
ý trì hoãn của nhà cầm quyền để gây khó khăn cho các giáo hội, nhất là các cộng
đồng tôn giáo độc lập, ngõ hầu giữ họ trong cơ chế xin-cho đầy trói buộc và
trong tình trạng sống cầm chừng bất phát triển.
b- Ngài cho biết “có nhiều mâu thuẫn về đất đai đã được thông tin đến tôi. Một số mâu thuẫn có vẻ có liên quan đến khía
cạnh tự do tôn giáo, ví dụ như khi mảnh đất trước kia đã được dùng cho nghĩa địa
tôn giáo hay các nhà thờ tự đã bị lấy đi để phục vụ phát triển kinh tế”.
Đáp lại, đại diện của nhà
nước công nhận rằng ở Việt Nam có mâu thuẫn đất đai như ở nhiều nước khác.
Xin thưa Ngài rằng đúng là như ở nhiều nước khác, tại VN có mâu thuẫn đất đai
liên quan đến tôn giáo. Nhưng ở các nước khác, mâu thuẫn đất đai đó xảy ra giữa
một cộng đồng hay tổ chức tôn giáo với một cộng đồng, tổ chức hay cá nhân nào
đó, hoặc thậm chí với một cơ quan nhà nước. Và đó là một tranh chấp dân sự.
Song tại Việt Nam, đất đai không thuộc quyền sở hữu của cá nhân hay tập thể (vốn
chỉ có quyền sử dụng) mà thuộc quyền sở hữu của nhà nước, như Hiến pháp 2013 điều
51 đã minh định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn
lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà
nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Quy định quái gở và bất công này giúp củng
cố lâu dài quyền lực của đảng và nhà cầm quyền Cộng sản. Thành ra những cuộc
tranh chấp đất đai mà các cộng đoàn tôn giáo tại VN gặp phải kể từ năm 1954
-lúc CS bắt đầu nắm quyền- do việc nhà cầm quyền trung ương hay địa phương tước
đoạt bất động sản và ruộng vườn của họ, những tranh chấp mâu thuẫn đó còn mang
tính chất chính trị nữa. Thành thử tự do tôn giáo đi liền với việc các giáo hội
và tổ chức giáo hội phải có quyền tư hữu đất đai.
c- Ngoài ra, bên cạnh việc xây dựng cơ sở thờ phượng và cơ sở hoạt động, việc tổ
chức lễ hội và tổ chức huấn luyện, việc chức sắc hay tín đồ ra ngoại quốc vì
chuyện tôn giáo (3 việc này thực ra chỉ được ban cho các cộng đoàn và cá nhân
không có vấn đề với chế độ), chúng tôi nghĩ rằng tự do tôn giáo tại VN còn bao
hàm nhiều yếu tố sâu xa và căn bản hơn, dựa trên Điều 18 và 19 Công ước về các Quyền Dân sự và Chính trị: “Mọi
người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao
gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, và tự do
bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người
khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực
hành và truyền giảng”. Do đó chúng tôi đòi hỏi các quyền đang bị nhà cầm
quyền tước đoạt sau đây:
- Các tôn giáo phải được tham gia vào việc giáo dục học đường và giáo dục quần
chúng, để đem tinh thần nhân bản và giá trị đạo đức vào lương tâm con người, bầu
khí xã hội, nhất là trong hoàn cảnh VN đang bị băng hoại vì ý thức hệ vô thần
Mác-xít vốn dìm cả xã hội trong gian dối và bạo lực, ích kỷ và đàn áp.
- Các tôn giáo phải có quyền mở trường học đủ mọi cấp, từ mẫu giáo đến đại học
(như đã có tại miền Nam trước năm 1975, trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa). Các
tôn giáo phải có quyền sở hữu nhà xuất bản riêng, cơ quan báo chí riêng, đài
phát thanh và đài truyền hình riêng (như đã có trước năm 1975 và như mọi tôn
giáo đang có tại các quốc gia văn minh dân chủ).
- Các học viện tôn giáo phải được độc lập trong tổ chức và tự do trong sinh hoạt,
toàn quyền quyết định nhân sự giảng dạy và nội dung giảng dạy. Phải chấm dứt
tình trạng chương trình đào
tạo còn bao gồm các môn học về lịch sử và luật pháp Việt Nam cũng như chủ nghĩa Mác-Lênin, với giáo khoa và giáo viên do nhà cầm quyền cung cấp. Đây là kiểu trộn thuốc độc vào thức ăn và nhất là một hình thức
theo dõi, kiểm soát các lãnh đạo tôn giáo tương lai.
Đấy là những minh định và kiến nghị chúng tôi trình lên Ngài, ngõ hầu Ngài có
thêm thông tin để làm một bản báo cáo đầy đủ cho Hội đồng Nhân quyền LHQ, một bản
báo cáo có sức mạnh kiến tạo một nền tự do tôn giáo đích thực trên quê hương
chúng tôi.
Chúng tôi chân thành cảm ơn Ngài và kính chúc Ngài hoàn thành nhiệm vụ cao quý.
Làm tại Việt Nam ngày 9 tháng 8 năm 2014
Hội đồng Liên tôn Việt Nam:
- Cụ Lê Quang Liêm, Hội trưởng PGHH (đt:
0199.243.2593).
- Hòa thượng Thích Không Tánh, Phật Giáo (đt: 0165.6789.881)
-
Thượng tọa Thích Viên Hỷ, Phật Giáo (đt: 0937.777.312).
- Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Công Giáo (đt: 0984.236.371)
- Linh mục Giuse Đinh Hữu Thoại, Công Giáo (đt: 0935.569.205)
- Linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh, Công Giáo (đt: 0993.598.820)
- Chánh trị sự Hứa Phi, Cao Đài (đt: 0163.3273.240)
- Chánh trị sự Nguyễn Kim Lân, Cao Đài (đt: 0988.971.117)
- Chánh trị sự Nguyễn Bạch Phụng, Cao Đài (đt: 0988.477.719)
- Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa, Tin Lành (đt: 0949.275.827)
- Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng, Tin Lành (đt: 0906.342.908)
- Mục sư Lê Quang Du, Tin
Lành (đt: 0121.2002.001)
- Mục sư Nguyễn Trung Tôn, Tin Lành (đt: 0162.838.7716)
-
Mục sư Đinh Thanh Trường, Tin Lành (đt: 01202352348)
-
Mục sư Đinh Uy, Tin Lành (đt: 01635847464)
- Ông Phan Tấn Hòa, PGHH (đt: 0162.630.1082)
- Ông Tống Văn Chính, PGHH
(đt: 0163.574.5430)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Phản Hồi