Đôi lời của IFA với bạn đọc; người Việt.
Trong
mấy tháng giữa năm 2001, nội địa Việt-Nam cũng như hải ngoại đều rúng
động vì tin nhà nước hay nói đúng hơn là đảng Cộng-sản Việt-Nam đã
nhượng lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-quốc. Đau đớn nhất cho người Việt là
địa danh lịch sử, đi vào tâm tư, là niềm tự hào của họ là cửa Nam-quan,
suối Thiên-tuyền (Phi Khanh) nay đã ở trong lãnh thổ Trung-quốc. Ngay
cả hang Pak-bo, là thánh địa của đảng Cộng-sản, trước kia ở rất xa biên
giới Hoa-Việt trên 50 km, nay đứng ở sát lãnh thổ Trung-quốc.
Trong suốt 25 năm qua Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ, vì ký khế ước làm việc với:
Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (CEP)
Ủy-ban trao đổi y học Pháp-hoa (CMFC),
Trong đó có điều căn bản là:
"Không
được viết, được thuật những gì với báo chí về Trung-quốc, Việt-Nam hiện
tại. Không được tham gia các đoàn thể chính trị chống đối Trung-quốc,
Việt-Nam"Nên không bao giờ ông tiết lộ bất cứ điều gì mắt thấy tai nghe trong những lần công tác tại Trung-quốc hay Việt-Nam. Tuy nhiên ông đã bị một cơ quan X (chúng tôi dấu tên) triệu hồi để điều trần về vụ này ngày 10-11-2001. Theo luật lệ hiện hành, mà Bác-sĩ Trần phải tuân theo. Rất mong các vị đứng đầu CEP-CMFC thông cảm với chúng tôi.
Lập trường của chúng tôi (IFA):
Dù
theo cổ sử, dù theo khảo cổ, dù theo Quốc-tế công pháp thì hai quần đảo
Hoàng-sa (Tây-sa), Trường-sa (Nam-sa) đều thuộc Việt-Nam. Trung-quốc
chỉ mới nhảy vào vòng tranh chấp khi được Thủ-tướng Phạm Văn Đồng của
nước VNDCCH ký văn kiện nhượng cho năm 1958 mà thôi. Còn Phi-luật-tân,
Mã-lai càng không có một chút lý nào để đòi chủ quyền tại đây. Vấn đề
quá rõ ràng, không cần bàn tới. Trong khi điều trần, Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ
đã đứng trên quan điểm này.
Cuộc
điều trần khá dài, nên Bác-sĩ Trần ngắt ra thành từng đoạn, để cử tọa
đặt câu hỏi. Vì cử tọa là những người có kiến thức rất rộng, rất cao về
vùng Á-châu, do thế Bác-sĩ Trần không đi vào chi tiết. Sau cuộc điều
trần, vô tình một vài yếu nhân trong cử tọa làm tiết lộ. Vì các bản bị
lộ không thống nhất, nên độc giả rất dễ hiểu làm. Mãi tới hôm nay
(10-1-2002) chúng tôi mới được phép phổ biến toàn văn, cũng như những
câu hỏi, câu trả lời (trừ một vài câu hỏi)
Kể
từ hôm Gs Trần Đại-Sỹ, điều trần (10-11-2001) cho đến hôm nay
(10-1-2002) chúng tôi đã nhận được: 1723 thư do Bưu-điện chuyển. 2431
E-mail:
* 1124 về Institut.Franco-Asiatique@ Wanadoo.fr, * 532 về Trandaisy@Yahoo.fr còn lại về TQJV.
Đa
số bằng Việt-ngữ, còn lại bằng Anh-ngữ, Pháp-ngữ, Hoa-ngữ. Nội dung thư
chia ra: Nhiều nhất là xin hình, tài liệu bổ túc. Thắc mắc.Công
kích. Thảo luận. Xin bản Hiệp-ước: Pháp ký với Thanh-triều 1887, và
Hoa-Việt(1999 và 2000).
Chúng
tôi xin nhắc lại, đây là một bài điều trần mật. Đánh giá về độ chính
xác của bản điều trần là các vị cử tọa hôm đó, và IFA chịu trách nhiệm
trước cơ quan (X). Sự việc đã chấm dứt, chúng tôi không thể tái thảo
luận. Xin ngừng gửi ý kiến tới. Chúng tôi cũng không cần nghe, đọc bất
cứ sự công kích nào. Chúng tôi không thể cung cấp tài liệu, hình ảnh cho
bất cứ đòi hỏi nào. Chúng tôi đã yêu cầu Gs. Trần Đại-Sỹ cũng phải
nghiêm chỉnh tuân theo nguyên tắc này.
Xin
nhắc lại, bài viết của Gs. Trần Đại-Sỹ bằng tiếng Pháp. Văn phòng của
chúng tôi dịch sang các tiếng của CE: Anh, Đức, Ý, Na-uy, Thụy-điển,
Đan-mạch, Hòa-lan, Tây-ban-nha, Bồ-đào-nha để chuyển cho tất cả các vị
cử tọa. Gs. Trần Đại-Sỹ e rằng những bản dịch không đúng ý của mình, nên
đã cẩn thận đính kèm các bản dịch trên bằng một bản tiếng Việt. Ông ghi
chú:
"Thưa ngài...
Dưới
đây là bản dịch từ tiếng Pháp sang tiếng của Ngài về bài điều trần của
tôi. Tôi sợ rằng bản dịch có đôi điều không đúng ý. Vì vậy tôi xin đính
kèm một bản tiếng Việt. Hiện khắp châu Âu, nơi nào cũng có trí thức gốc
người Việt định cư. Vậy nếu Ngài có điều gì thắc mắc, xin trao bản tiếng
Việt và tiếng nước Ngài, cho một người Việt, tại nước Ngài để so sánh.
Như vậy sẽ không sợ bị hiểu lầm".
Sau
khi biết rằng bản điều trần mật bị lộ, chúng tôi xin cơ quan X. cho phổ
biến toàn văn. Chúng tôi không thể gửi đến từng cá nhân, mà chỉ gửi đến
các cơ quan truyền thông Việt-Hoa. Nếu Quý-vị phổ biến xin:Giữ nguyên
bản, không thêm bớt. Phổ biến toàn bộ hình đính kèm.
Trân trọng (IFA)
Tài liệu ( I F A ) Institut Franco Asiatique - Giáo-sư Trần Đại-Sỹ
Tôi
vừa lướt qua vài nét đơn sơ về biên giới Hoa-Việt, về ngoại giao
Hoa-Việt trong thời gian 989 năm. Bây giờ tôi xin đi thẳng vào đầu đề
hôm nay, về việc:
- Đảng Lao-động Việt-Nam lãnh đạo nhà nước Việt-Nam Dân-chủ Cộng-hòa (VNDCCH, 1945-1975).
- Đảng Cộng-sản Việt-Nam lãnh đạo nhà nước Cộng-hòa Xã-hội Chủ-nghĩa Việt-Nam (CHXHCNVN, 1975-2001)
Đã nhượng lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-hoa Nhân-dân Cộng-hòa quốc gọi tắt là Trung-quốc.
3. VỤ NƯỚC VIỆT-NAM DÂN CHỦ CỘNG-HÒA NHƯỢNG LÃNH HẢI CHO TRUNG-QUỐC.
3.1, Kết quả của văn kiện 14-9-1958.
Ngày 4-9-1958, chính phủ Trung-quốc tuyên cáo về lãnh hải 12 hải lý kể từ đất liền của họ, có đính kèm bản đồ rất rõ ràng.
Bản tuyên cáo này chỉ có hai nước công nhận đó là VNDCCH và Bắc Cao (Cộng-hòa Nhân-dân Triều-tiên).
Việc nước Việt Nam VNDCCH công nhận như sau:
Ngay
khi nhận được bản tuyên cáo do sứ quán Trung-quốc tại Hà-nội trao,
Chủ-tịch Hồ Chí Minh triệu tập Bộ Chính-trị đảng Lao-động Việt-Nam (tức
đảng Cộng-sản Việt-Nam ẩn danh). Trong buổi họp này toàn thể các thành
viên nhất trí chấp nhận bản tuyên bố của Trung-quốc. Ngày 14-9-1958,
Thủ-tướng Phạm Văn-Đồng tuân lệnh Chủ-tịch Hồ Chí-Minh, gửi văn thư cho
Tổng-lý Quốc-vụ viện Trung-quốc (Thủ-tướng) là Chu Ân-Lai, trong đó có
đoạn (Văn thư đính kèm 1):
"Chính-phủ nước Việt-Nam Dân-chủ Cộng-hòa tôn trọng quyết định ấy, và sẽ chỉ thị cho các cơ quan có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng-hòa Nhân-dân Trung-hoa trên mặt biển".
Ngắt đoạn 3,
Cử tọa thắc mắc, câu hỏi 3,
Ngoài bản văn này, liệu chúng ta có thể tìm lại một vài chi tiết khác không?
Gs. TĐS,
Thưa Ngài nhiều lắm, nhưng tôi chỉ xin cử vài tài liệu mà thôi:
- Bản tin UPI-AFP ngày 23-9-1958.
- Vụ việc này báo chí Việt-Hoa đều có đăng tải ngày 23-9-1958, Quý-vị có thể tìm tại thư viện Paris, London và cả một số thư viện Trung-quốc (Bắc-kinh), Việt-Nam (Hà-nội). Nội dung UPI- AFP đều đánh đi đại lược:
"Ngày 22 tháng 9 năm 1958, Đại-sứ của VNDCCH tại Trung-quốc là ông Nguyễn Khang, đã trao công hàm cho ông Cơ Bằng Phi, Thứ-trưởng Bộ Ngoại-giao Trung-quốc. Nội dung như sau:
Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải phận Trung-quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trên mặt biển".
- Tháng 5 năm 1976 (chúng tôi quên ghi ngày), nhật báo Sài-gòn Giải-phóng, cơ quan ngôn luận của Thành-ủy Thành phố Hồ Chí Minh viết một bài xác nhận quần đảo Hoàng-sa, thuộc Trung-quốc. Nguyên văn có câu:
"Trung-quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí, mà còn là ông thầy tin cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có được ngày hôm nay, thì chủ quyền Hoàng-sa thuộc Trung-quốc hay thuộc ta cũng vậy thôi. Trung-quốc với là hai nước sông liền sông, núi liền núi. Khi nào chúng ta muốn nhận lại quần đảo này, Trung-quốc sẽ sẵn sàng giao lại".
- Sau trận hải chiến ngày 14 tháng 3 năm 1988 với Trung-quốc, cơ quan ngôn luận chính thức của đảng Cộng-sản Việt-Nam, tờ Nhân-dân, số ra ngày 26 tháng 4 năm 1988, tự biện hộ về việc nộp lãnh hải của Bộ Chính-trị thời Hồ Chí Minh như sau:
"Đúng là có những lời tuyên bố đó. Cần phải đặt lại những lời tuyên bố này trong bối cảnh lịch sử của nó... Trong cuộc chiến đấu một mất một còn, chống một kẻ thù xâm lược có sức mạnh quân sự lớn hơn mình nhiều, Việt-Nam tranh thủ được Trung-quốc gắn chặt với cục chiến đấu của Việt Nam càng nhiều bao nhiêu và ngăn chận Mỹ sử dụng hai quần đảo cũng như vùng biển Đông chống lại Việt-Nam, thì càng tốt bấy nhiêu".
Kính thưa Quý-vị, tôi xin tiếp tục,
Theo bản tuyên bố này thì những nước liên hệ là:
- Trung-hoa Dân-quốc (Ðài-loan),
- Nhật-bản,
- Hoa-kỳ (hạm đội 7),
- Phi-luật-tân,
- Mã-lai,
- Brunei,
- Indonésia,
- VNDCCH và Việt-Nam Cộng-hòa (VNCH).
Thế
nhưng từ hồi đó đến nay các nhà nghiên cứu Âu-Mỹ cho đến các nước
Á-châu Thái-bình-dương (ACTBD) không hề để ý đến văn thư trên. Ngay
VNCH, bấy giờ cơ quan tình báo được gọi là Sở Nghiên-cứu Chính-trị và
Xã-hội, được chỉ đạo bới một trí thức siêu việt, đào tạo tại Pháp là ông
Ngô Đình Nhu, mà cũng không để ý tới. Vì đọc bản tuyên bố lãnh hải kể
từ đất liền, là 12 hải lý, đúng theo công ước Liên-hiệp quốc họp tại San
Francisco năm 1951, thì có chi bận tâm?
Vì sao một người tinh minh, mẫn cán như ông Ngô Đình Nhu mà cũng bị sơ sót?
Bản
tuyên bố chỉ đọc trên hệ thống truyền thanh của Trung-quốc, rồi cũng
được các báo Trung-quốc đăng lại, mà không có bản đồ đính kèm. Cả thế
giới (kể cả Hoa-kỳ, Trung Hoa Dân Quốc, VNCH) cứ nhìn trên bản đồ
Trung-quốc cũng như vùng Nam-hải phân định lãnh hải từ 1887 mà cho
rằng: theo Quốc-tế công pháp thì lãnh hải hầu hết các nước đều gồm 12
hải lý, kể từ thềm lục địa. Vụ Trung-quốc tuyên bố lãnh hải 12 hải lý
của họ là một sự bình thường. Cái tưởng lầm tai hại đó cho đến nay
(11-2001), những người chống đối vụ nhường đất cho Trung-quốc ở trong
nội địa Việt-Nam, cũng như hải ngoại chỉ kết tội vu vơ, không rõ ràng,
không chứng cớ vì nguyên do không bản đồ này.
Do
kết quả không có bản đồ đính kèm của Trung-quốc tuyên bố lãnh hải của
họ (gần như trọn vẹn vùng biển Nam-hải, đính kèm), Hoa-kỳ cũng như thế
giới không biết (hay không công nhận), nên suốt thời gian 1958-2001:
- Hạm đội 7 của Hoa-kỳ tuần hành trong vùng lãnh hải tuyên bố này, đầy đe dọa Trung-quốc, mà Trung-quốc vẫn ngậm bồ hòn.
- Chiến hạm của Pháp, Đức, Ý cũng như một số nước Úc, Âu trong thời gian 1975-1980 vẫn tuần hành, hộ tống những con tầu vớt người Việt trốn chạy trong vùng, mà Trung-quốc đành im lặng.
Hôm nay tôi cần phải trình bày trước các vị và làm sáng tỏ nội vụ.
Kính thưa Quý-vị,
3.2. Những bí ẩn.
Cái bí ẩn đó không có gì lạ cả, rất rõ ràng, rất chi tiết.
- Về phía các nhà nghiên-cứu Âu-Mỹ, ACTBD không có bản đồ đính kèm bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung-quốc, họ cứ nhìn vào bản đồ đã phân định từ 1887, giữa Pháp và triều Thanh. Họ cũng cứ nhìn bản đồ của các nước vùng Nam-hải, của Trung-quốc, của Trung-hoa Dân-quốc cũ, rồi cho rằng lãnh hải 12 hải lý thì đúng công ước quốc tế.
Nhưng
nếu họ có bản đồ về lãnh thổ đính kèm bản tuyên bố thì họ sẽ toát mồ
hôi ra. Vì bản đồ này bao gồm toàn bộ các đảo trong vịnh Bắc-Việt, toàn
bộ các đảo ở biển Nam-hải như Tây-sa (Hoàng-sa) và Nam-sa (Trường-sa).
Như vậy nếu tính lãnh hải 12 hải lý, tính từ các đảo này thì:
- Lãnh hải Trung-quốc ở biển Nam-hải, phía Tây sẽ sát tới bờ biển suốt miền Trung, Bắc Việt-Nam.
- Phía Đông sát tới lục địa Phi-luật-tân, Brunei,
- Phía Nam sát tới Indonésia, Mã-lai.
Trở
lại với Chủ-tịch Hồ Chí-Minh, bộ Chính-trị đảng Lao-động (Cộng-sản)
Việt-Nam và chính phủ VNDCCH hồi 1958, khi các vị ấy có bản tuyên bố
lãnh hải của Trung-quốc, thìï cũng có bản đồ chi tiết. Nhưng các vị ấy
gửi thư chấp nhận bản tuyên bố đó thì có nghĩa rằng:
Họ đồng ý nhường cho Trung-quốc toàn bộ:
- Các đảo của Việt-Nam trên biển Nam-hải.
- Toàn bộ lãnh hải Việt-Nam cách các đảo đó 12 hải lý, nghĩa là toàn bộ biển Nam-hải.
Bản đồ tuyên bố lãnh hải 12 hải lý của Trung-quốc .Đính kèm cùng bản tuyên bố gởi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 4-9-1958
Theo bản đồ này thì lãnh hải của họ chiếm hết biển Nam-hải, cách Phan-thiết,
Quảng-Nam Mã-lai, Phi-luật-tân có 50 hải lý. Quyết định này được
đảng Cộng-sản VN tán thành.
Kính thưa Quý-vị,
3.3 - Bí ẩn vụ Trung-quốc chiếm Hoàng-sa (Tây-sa)
Từ trước đến giờ, có nhiều vị hiện diện hôm nay từng đặt câu hỏi với tôi rằng:
- Tại
sao năm 1974, thình lình Trung-quốc đem quân đánh quần đảo Hoàng-sa
(Tây-sa) từ VNCH. Trận chiến diễn ra ngắn ngủi, phía Trung-quốc bị thiệt
hại gấp ba VNCH (về nhân mạng, về chiến hạm, tài liệu này tôi có từ
phía Trung-quốc). Nhưng VNCH vì quân ít, vũ khí chỉ có đại bác, chiến
hạm nhỏ. Trong khi Trung-quốc có hỏa tiễn địa-địa, chiến hạm lớn đông
gấp bội VNCH. VNCH lại đang có nội chiến, phải đương đầu với quân đội
VNDCCH, vì vậy VNCH phải bỏ kế hoạch tái chiếm Hoàng-sa. Bấy giờ Hoa-kỳ
với VNCH có hiệp ước hỗ tương an ninh, Hoa-kỳ đang tham chiến tại
Việt-Nam, hạm đội 7 hùng hậu đang tuần hành gần vùng giao chiến. Tại sao
Hoa-kỳ không can thiệp, không lên tiếng bênh vực VNCH? Ngay việc thủy
thủ VN, tầu bị chìm, mà hạm đội 7 cũng không vớt theo luật hàng hải
Quốc-tế.
Cử tọa hỏi, câu hỏi thứ 4,
- Xin Gs cho biết trong trận hải chiến này, phía Trung-quốc, VNCH, bên nào nổ súng trước?
Gs TĐS,
- Thưa VNCH. Hải-quân VNCH rất thiện chiến, tác xạ rất chính xác, các sĩ quan đều được huấn luyện theo tiêu chuẩn Âu-Mỹ, thêm kinh nghiệm VN. Ngay loạt đạn đầu tiên khiến 4 hạm trưởng Trung-quốc tử trận.
Tôi xin trở lại đầu đề:
Vì:
Trong-cuộc mật đàm giữa Hoa-kỳ (Kissinger) và Trung-quốc (Mao Trạch Đông). Phía Trung-quốc trao cho ông Kissinger bản tuyên bố lãnh hải 4-9-1958 cùng bản đồ. Ông Kissinger đã công nhận bản tuyên bố đó. Cho nên ông Kissinger vừa rời Trung-quốc hai ngày, thì ngày 11 tháng 1 năm 1974, Trung-quốc tuyên bố hai quần đảo Tây-sa (Hoàng-sa) và Nam-sa (Trường-sa) là của Trung-quốc, rồi Trung-quốc đem hạm đội xuống Hoàng-sa. Bấy giờ Hoàng-sa do VNCH trấn đóng.
Vì:
Văn thư của ông Phạm Văn-Đồng công nhận quần đảo này là của Trung-quốc. Trung-quốc chiếm Hoàng-sa chỉ là việc chiếm lại lãnh thổ được văn thư 14-9-1958 công nhận. Nghĩa là Trung-quốc chiếm lại lãnh thổ đã bị VNCH xâm lăng 16 năm.
Ngắt đoạn 4,
Cử tọa hỏi, câu hỏi 5, cấm phổ biến.
Về
nguồn gốc tài liệu cuộc mật đàm giữa Chủ-tịch Mao Trạch Đông và Cố-vấn
Kissinger. Gs Trần trình bày chi tiết. Toàn bộ cử tọa chấp nhận; nhưng
chúng tôi bị cấm không được phổ biến.
Sau khi Gs Trần trình bầy, một trong ba vị chủ tọa phát biểu:
Tôi
xin bổ túc những gì Gs Trần lướt qua. Bấy giờ (1974) là thời điểm chiến
tranh Đông-dương đang diễn ra cực kỳ sôi động, mà tình hình giữa
Liên-sô với Trung-quốc cũng căng thẳng cực kỳ. Qua những cuộc mật đàm
giữa Chủ-tịch Mao Trạch Đông với Cố-vấn Kissinger; Trung-quốc, Hoa-kỳ đã
đi đến những thỏa thuận quan trọng. Rồi Tổng-thống Richard Nixon thăm
Trung-quốc.
Chúng
ta đều biết sự hiện diện, của Hoa-kỳ tại Đông-dương là ngăn chặn hai
mũi dùi Cộng-sản từ Afghanistan, Đông-dương nối với nhau. Bây giờ Hoa-kỳ
biết chắc Trung-quốc, Liên-sô không thể hàn gắn lại, khối Cộng bị vỡ
làm nhiều mảnh. Vì vậy sự hiện diện của Hoa-kỳ trở thành vô ích, vừa tốn
tiền, vừa tốn máu. Cho nên họ muốn rút ra khỏi Đông-dương, dùng
Đông-dương làm bình xăng tưới vào ngọn lửa đang thiêu đốt căn nhà ngoại
giao Trung-Sô.
Chìa
khóa của Đông-dương là Việt-Nam. Mà tại Việt-Nam, mọi quyết định do Bộ
Chính-trị. Chủ-tịch Hồ Chí Minh chết 5 năm rồi, vấn đề tranh quyền đã
ngã ngũ, phe chạy theo Liên-sô Lê Duẩn, Lê Đức Thọ thắng thế.
Trung-quốc biết rất rõ. Suốt bao năm Trung-quốc cưu mang cho Bắc VN, nay
bỗng dưng Trung-quốc mất hết, chỉ còn tay trắng ư? Trung-quốc phải kiềm
chế Bắc VN. Thế nhưng Trung-quốc muốn kiềm chế mà không được. Mao tìm
cách nắm Cambodge mà bấy giờ Cambodge còn nằm trong tay Bắc VN. Vì vậy
Trung-quốc muốn tìm cách dùng Nam VN (VNCH) làm bức tường cản Bắc
Việt-Nam (VNDCCH). Trung-quốc tìm cách gần Nam VN bằng hai ngả:
- Ngả thứ nhất:
Mật sứ của Trung-quốc tại Londre gặp Đại-sứ Nam VN (VNCH) ngỏ ý cho
biết Hoa-kỳ đang muốn trao VNCH cho Bắc VN. Nếu VNCH muốn, Trung-quốc sẽ
giúp như sau: Mặt Bắc, chặn con đường tiếp tế từ đường bộ Liên-sô qua
lãnh thổ Trung-quốc. Trung-quốc đem đại quân ép Bắc biên. Mặt Nam tiếp
tế vũ khí cho VNCH. Như vậy bắt buộc Bắc VN phải rút quân về.
- Ngả thứ nhì, Trung-quốc qua mấy nhân vật trí thức VN trong Phong Trào Liên Bang Đông Nam Á (hội tư luật 1901) tại Paris, trực tiếp nói cho Tổng-thống, và Bộ Ngoại-giao VNCH biết rằng: Việc Hồng-quân tiến xuống Trường-sa chỉ là cái cớ để Trung-quốc với VNCH ngồi vào bàn hội nghị. Nhưng không rõ VNCH quan niệm ra sao, mà lại khai hỏa trước.
Cử tọa hỏi, câu hỏi 6,
- Hồi đầu năm 1974, tôi có đọc trên một tờ báo Anh-ngữ xuất bản tại Hương-cảng tường thuật về trận đánh giữa VN (VNCH) và Trung-quốc ngày 19-1-1974 trong vùng quần đảo Hoàng-sa. Giáo-sư có thể cho biết: Lực lượng tham chiến của hai bên ra sao? (Người đặt câu hỏi nguyên là Đô-đốc)
Gs TĐS,
- Thưa Ngài tôi xin chiếu lên màn ảnh để Ngài thấy.
Về phía VNCH,
1, Lực lượng tham chiến: 4 chiến hạm
Về phía Trung-quốc, 1, Lực lượng tham chiến: 14 chiến hạm
Do chính Đô-đốc Tư-lệnh hạm đội Nam-hải chỉ huy. Chúng tôi không biết tên ông.
|
Cử tọa hỏi, câu hỏi 7,
- Tổn thất 2 bên ra sao? (Vẫn vị cựu Đô-đốc trên)
Gs. TĐS,
- Xin mời ngài xem bảng so sánh, tôi chiếu lên.
Về phía VNCH,
|
Cử tọa hỏi, câu hỏi 8,
Cấm phổ biến: Nội dung về nguồn gốc tài liệu tổn thất về phía Trung-quốc.
Cử tọa hỏi, câu hỏi 9,
- Tôi nghe Hoa-kỳ trang bị cho VN (VNCH) những vũ khí, cũng như chiến hạm tối tân nhất. Trong khi Giáo-sư chiếu hình 4 chiến hạm tham chiến đều thuộc loại hạ thủy vào thập niên 1940, quá cũ kỹ. Vũ khí cũng vậy. Tại sao VN (VNCH) không đem những chiến hạm, vũ khí tối tân ra tham chiến? (Người đặt câu hỏi nguyên là kỹ sư hàng hải).
Gs TĐS,
- Thưa quả đúng như Ngài nhận xét. Tất cả chiến hạm Hoa-kỳ viện trợ cho VNCH đều thuộc loại phế thải. Thay vì Hoa-kỳ phá hủy, họ tân trang lại rồi trao cho VN. Bốn chiến hạm tham dự trận đánh đều là những chiến hạm tốt nhất mà VN nhận được. HQ4 hạ thủy năm 1943. (Cử tọa bật cười). HQ5 hạ thủy năm 1944. HQ10 hạ thủy năm 1942. HQ 16 hạ thủy năm 1942. Còn vũ khí, cũng có chiến hạm trang bị loại đại bác bắn liên thanh. Nhưng khi trao cho VN thì Hoa-kỳ tháo đi. Dường như Hoa-kỳ đoán trước có cuộc hải chiến này, nên một chiến hạm trang bị loại đại bác trên, tuy đã trao cho VNCH, nhưng bị tháo đi trước đó mấy tháng. Bằng không phía Trung-quốc bị thiệt hại còn nặng hơn nhiều.
Quý vị có biết không? Hộ tống hạm ký số HQ10, giữa trận đánh, máy bị hỏng, do cũ quá chứ không phải bị trúng đạn, vì vậy không di chuyển được, làm bia lĩnh đạn, sau đó bị chìm.
Cử tọa hỏi, câu hỏi 10,
- Trong quá khứ, giữa VN với Trung-quốc đã xẩy ra những trận thủy chiến nào? Kết quả ra sao? (Người hỏi nguyên là giáo sư sử Đông-Á)
Gs TĐS,
- Thưa Ngài trong lịch sử 5000 năm của Hoa-Việt, chiến tranh liên miên. Về bộ chiến, kị chiến thì cả hai bên khi khi thắng khi bại. Duy thủy chiến, bao giờ Việt cũng thắng.
Cử tọa hỏi câu hỏi 11,
- Xin cho biết những trận nào?
Gs TĐS,
- Trận cổ nhất vào năm 42 sau Tây-lịch. Chiến địa xẩy ra ngoài biển Đông. Đô-đốc Trung-quốc là Đoàn Chí. Đô-đốc Việt là Trần Quốc, một nữ tướng. (Cử tọa ồ lên). Kết quả hạm đội Trung-quốc bị đánh chìm hết. Đoàn Chí bị giết.- Hồi đó người Việt theo chế độ mẫu hệ ư?- Thưa không. Nhưng vị Hoàng-đế cai trị là một phụ nữ. Trong suốt năm nghìn năm lịch sử, đời nào VN cũng có những nữ tướng kiệt hiệt.- Hiện có còn chứng tích nào về vị nữ Đô-đốc này không?- Nếu Ngài du lịch VN, xin tới Hà-nội, thuê xe, bảo tài xế đưa đến làng Hoàng-xá, xã Kiêu-kỵ, huyện Gia-lâm là nơi có đền thờ bà. Tôi xin chiếu vidéo về đền thờ này. (chiếu vidéo 5 phút).- Thưa Ngài trận thứ nhì do Vua Ngô (938), trận thứ ba do vua Lê (981), trận thứ tư do Hưng Đạo vương (1288). Cả ba trận sau đều diễn ra trên sông Bạch-đằng, Trung-quốc đều bị bại. Trận 1288 là trận khủng khiếp nhất, bên Trung-quốc do vua Mông-cổ là Hốt Tất Liệt chỉ đạo. Kể từ đó cho đến năm 1974, mới có trận Hoàng-sa.
Đền thờ công chúa Gia-hưng Trần Quốc, đại đô đốc thời Lĩnh-Nam
(vua Trưng), tại làng Hoàng-xá, xã Kiêu-kỵ, huyện Gia-lâm, Hà-nội.
Bốn chữ đại tự trên là VẠN CỔ ANH PHONG. Có 3 câu đối ở mặt tiền,
câu thứ 2 nói lên huân nghiệp của ngài:
(vua Trưng), tại làng Hoàng-xá, xã Kiêu-kỵ, huyện Gia-lâm, Hà-nội.
Bốn chữ đại tự trên là VẠN CỔ ANH PHONG. Có 3 câu đối ở mặt tiền,
câu thứ 2 nói lên huân nghiệp của ngài:
Tô khấu tước bình trực bả quần thoa đương kiếm kích,
Trưng vương dực tải hảo tương cân quắc hộ sơn hà.
Trưng vương dực tải hảo tương cân quắc hộ sơn hà.
(Bình giặc Tô Định, đem quần thoa, chống với kiếm kích.
Phò Trưng vương, đem khăn yếm giữ non sông)
Phò Trưng vương, đem khăn yếm giữ non sông)
Đền Kiếp-bạc, thờ Hưng Đạo vương. Bốn chữ đại tự trên là:
DỮ THIÊN VÔ CỰC. Bốn chữ dưới là TRẦN HƯNG ĐẠO VƯƠNG TỪ.
DỮ THIÊN VÔ CỰC. Bốn chữ dưới là TRẦN HƯNG ĐẠO VƯƠNG TỪ.
Cử tọa hỏi, câu hỏi thứ 12,
- Xin cho biết lực lượng hải quân Trung-quốc và Việt-Nam hiện giờ?
Gs TĐS,
- Trình bày chi tiết, cử tọa chấp nhận. Nhưng chúng tôi bị cấm không được phổ biến.
Tôi xin trở lại với bài điều trần:
- Cũng có vị hỏi tôi rằng: Tại quần đảo Trường-sa (Nam-sa) hiện có quân của Trung-hoa Dân-quốc (Đài-loan), Phi-luật-tân, Mã-lai, Việt-Nam. Thế sao hải quân Trung-quốc luôn khai hỏa vào hải quân Việt-Nam. Quan trọng nhất là trận chiến 14 tháng 3 năm 1988. Việt-Nam chỉ phản đối lấy lệ?
Nay tôi xin thưa:
Do văn thư của ông Phạm Văn-Đồng công nhận quần đảo này là của Trung-quốc.Lập luận phía Trung-quốc là: Thủ-tướng Phạm Văn-Đồng đã công nhận vùng này là lãnh hải Trung-quốc, tại sao quân đội Việt-Nam còn hiện diện tại đây? Như thế là Việt-Nam xâm phạm lãnh thổ Trung-quốc. Quân đội Trung-quốc phải đánh đuổi quân xâm lăng, bảo vệ đất nước là lẽ thường. Quân đội Đài-loan đóng tại đây, mà Trung-quốc không tấn công vì quân Đài-loan thì cũng là quân đội Trung-quốc đóng trên lãnh thổ Trung-quốc. Còn Phi, Mã-lai với Trung-quốc đang tranh chấp trên quần đảo này chưa ngã ngũ; thì quân đội của họ hiện diện là lẽ thường. Trung-quốc không thể tấn công họ, vì như vậy là Trung-quốc ỷ lớn hiếp nhỏ.Đối với vụ việc tranh chấp Trung-quốc, Việt-Nam trên đảo Trường-sa (Nam-sa) đã giải quyết bằng văn thư của Việt-Nam ngày 14-9-1958. Chính vì lý do này mà Trung-quốc chỉ chấp nhận đàm phán về vùng đảo với từng nước, mà không chịu đàm phán chung với tất cả các bên liên hệ. Có nghĩa họ gạt Việt-Nam ra ngoài, vì Việt-Nam đã công nhận các đảo này là của Trung-quốc.
Cử tọa hỏi, câu hỏi thứ 13,
- Giáo-sư có thể cho biết chi tiết về trận đánh ngày 14-3-1988 không? Tổn thất hai bên như thế nào?
Gs TĐS,
Về phía Trung-quốc dường như không có ai tử thương. Cũng không có chiến hạm nào bị chìm. Về phía VN, thì:
- 1 Chiến hạm Thượng-hải do Trung-quốc viện trợ cho trước đây, bị chìm.
- 1 Tuần dương hạm của VNCH để lại, bị chìm.
- 1 Một hải vận hạm do Nga-sô viện trợ bị chìm.
- Nhân mạng khoảng trên 300 chết.
Kính thưa Quý-vị, tôi xin trở lại phần điều trần.
3.4 - Về hoàn cảnh Mạc Ðăng Ðung năm 1540
Ta có thể hiểu tại sao giặc Mạc lại làm công việc táng tận lương tâm, ô danh bậc nhất cổ kim trong lịch sử tộc Việt ấy. Vì:
- Bấy
giờ tuy Dung và con cháu đang cai trị Đại-Việt. Nhưng tại Thanh-hóa con
cháu nhà Lê đã thiết lập triều đình mới, đang tiến quân về Thăng-long.
- Phía Bắc bị 22 vạn quân Minh dàn ra định tràn xuống đánh. Vì tính mạng bản thân và gia đình, họ hàng bị đe dọa, nên Mạc Đăng-Dung phải đầu hàng Minh triều, rồi cắt đất dâng cho Minh.
3.5 - Về hoàn cảnh đảng Cộng-sản Việt-Nam năm 1958, và chính phủ VNDCCH.
Tất cả những vị trong bộ Chính-trị đảng Cộng-sản, trong Chính-phủ đều biết rằng:
- Kể
từ năm 1540, sau khi dâng đất cho Trung-quốc, giặc Mạc Đăng-Dung bị
lịch sử Việt-Nam kết tội, bị toàn dân nguyền rủa, đến bấy giờ trải 418
năm, chính họ cũng nguyền rủa bọn Mạc.
- Giữa
VNDCCH và Việt-Nam Cộng-hòa (VNCH), cả hai bên đều đang lo củng cố xây
dựng lại vùng đất của mình sau chiến tranh (1945-1954). Cả hai bên cùng
chưa chính thức gây hấn với nhau. VNDCCH không có ngoại thù.
- Trung-quốc không có chiến tranh với VNCDCH. Không có áp lực ngoại xâm.
- Năm
1958, là lúc thịnh thời nhất của Chủ-tịch Hồ Chí Minh, của Đại-tướng Võ
Nguyên Giáp. Thời kỳ này, miền Bắc Việt-Nam vừa trải qua cuộc Cải cách
ruộng đất, 246.578 người hầu hết là phú nông, địa chủ, trung nông, các
cựu đảng viên không phải của đảng Lao-động (Cộng-sản), dân chúng... bị
giết. Nghĩa là toàn miền Bắc dân chúng kinh hoàng, cúi đầu răm rắp tuân
lệnh đảng. Không còn kẻ nội thù,
- Nhất
là lúc ấy VNDCCH đang kéo cao cờ nghĩa đánh Pháp, chống Mỹ cứu nước. Họ
kết tội VNCH là Việt-gian, là Ngụy. Họ phải hết sức giữ gìn để khỏi mất
chính nghĩa.
- Thế sao đảng Cộng-sản lại làm cái việc thân bại danh liệt, trở thành tội đồ muôn năm của tộc Việt?
- Bàn về việc ký thỏa ước với nước ngoài, việc nhận đất, nhượng đất phải thông qua Quốc-hội. Bấy giờ VNDCCH cũng có Quốc-hội. Nhưng Quốc-hội không được hỏi đến, không được bàn đến và nhất là không được thông tri. Quốc dân cũng thế. Tất cả thắc mắc này, tôi xin để Qúy-vị suy đoán và trả lời.
3.6 - Một câu hỏi được đặt ra:
Vậy thì vì lý do gì mà đảng Cộng-sản Việt-Nam lãnh đạo Chính-phủ VNDCCH lại nhượng lãnh hải cho Trung-quốc quá dễ dàng? Cho đến nay, tôi cũng không tìm ra lý do thỏa đáng.
Tôi không tìm ra vì:
- Tất
cả những vị trong bộ Chính-trị đảng Cộng-sản Việt-Nam dự buổi hội quyết
định nhượng lãnh hải, đều đã từ trần. Các vị trong nội các Phạm
Văn-Đồng hồi ấy, không biết nay có ai còn sống hay không? Tôi chỉ biết
chắc rằng Đại-tướng Võ Nguyên-Giáp, vừa là Bộ-trưởng bộ Quốc-phòng, vừa
là ủy viên Bộ Chính-trị là còn tại thế. Đại-tướng là người có học thức
cao nhất bộ Chính-trị, từng là giáo sư Sử-học. Bấy giờ lại là lúc uy
tín, quyền hành của Đại-tướng lên tột đỉnh. Vụ ông Phạm Văn-Đồng ký văn
kiện này Đại-tướng phải biết. Nay Đại-tướng đang đi vào những ngày cuối
cùng của đời người. Nếu sĩ khí, dũng khí của Đại-tướng còn, xin
Đại-tướng cho quốc dân biết không? (5)
Chú giải, (5)
Sau
cuộc cải cách ruộng đất. Thấy dân chúng, cán bộ quá bất mãn. Chủ-tịch
Hồ Chí-Minh sợ có biến, vội đưa vụ sửa sai. Nhận thấy bấy giờ duy có
Đại-tướng Võ Nguyên Giáp là có uy tín nhất, Bộ Chính-trị tập hợp dân
chúng, cán bộ, rồi mời ông ra thay Đảng... xin lỗi.
- Nếu nói rằng khi ký văn kiện trên, là tự ý Thủ-tướng Phạm Văn-Đồng thì không thể nào tin được. Vì chính ông Phạm Văn-Đồng từng than rằng: Ông là một Thủ-tướng lâu năm, nhưng không có quyền hành gì, ngay cả việc muốn thay một Bộ-trưởng cũng không được. Vậy thì đời nào ông dám ký văn kiện nhượng đất cho Trung-quốc!
- Ví thử ông Phạm Văn-Đồng tự ý ký văn kiện trên, thì năm 1977 văn kiện ấy lộ ra ngoài. Người Việt hải ngoại từng đem đăng báo, ông Phạm Văn-Đồng hãy còn sống, sao Bộ Chính-trị, Quốc-hội và Chính-phủ không truy tố ông ra tòa về tội phản quốc? Tội này trong hình luật Việt-Nam phải xử tử hình. Thế mà ông ấy vẫn ung dung sống thêm bốn chục năm nữa, đầy quyền hành?
- Liệu những tài liệu, biên bản về buổi họp này có nằm tại văn phòng Bộ Chính-trị, văn phòng bộ Ngoại-giao CHXHCNVN không? Các vị trong Bộ Chính-trị hiện thời có thể công bố cho quốc dân biết không? Nếu quý vị im lặng, thì muôn nghìn năm sau, lịch sử còn ghi: Đảng Cộng-sản bán nước, mà không cầu vinh, cũng chẳng cầu tài; chứ không phân biệt rằng Bộ Chính-trị 1958 bán nước, chứ Bộ Chính-trị 2001 không hề làm việc này.
Chúng tôi xin ngừng lời để Quý-vị thắc mắc, trước khi điều trần sang phần thứ nhì.Không có câu hỏi nào.
Kính thưa Quý-vị,
Bây giờ tôi xin điều trần sang phần thứ nhì, đó là:
4. VỤ NHƯỢNG LÃNH THỔ MỚI ÐÂY.
- Hiệp định về biên giới trên đất liền Việt-Nam, Trung-quốc ngày 30-12-1999, ký tại Hà-nội giữa bộ trưởng Ngoại-giao Việt-Nam là Nguyễn Mạnh-Cầm với bộ trưởng Ngoại-giao Trung-quốc là Đường Gia-Truyền.
- Hiệp định phân định vịnh Bắc-bộ giữa Việt-Nam, Trung-quốc ngày 25-12-2000, ký tại Bắc-kinh giữa bộ trưởng Ngoại-giao Việt-Nam là Nguyễn Dy Niên và bộ trưởng Ngoại-giao Trung-quốc là Đường Gia Truyền, dưới sự chứng kiến của Chủ-tịch Việt-Nam Trần Đức Lương và Chủ-tịch Trung-quốc Giang Trạch Dân.
4.1 - Ai chịu trách nhiệm về hai hiệp định.
Hai hiệp định này đều ký trong thời gian 1999-2000. Vào thời kỳ này tại Việt-Nam thì:
- Ông Lê Khả-Phiêu làm Tổng Bí-thư đảng Cộng-sản ViệtNam,
- Ông Trần Ðức-Lương làm Chủ-tịch nhà nước,
- Ông Nông Ðức-Mạnh làm Chủ-tịch Quốc-hội,
- Ông Phan Văn-Khải làm Thủ-tướng.
- Ông Nguyễn Mạnh Cầm làm Bộ trương Ngoại-giao.
Ai
chịu trách nhiệm khi ký hai hiệp định trên? Cá nhân thì tôi không biết,
nhưng có một điều tập thể thì ai cũng khẳng định là Bộ Chính-trị của
đảng Cộng-sản Việt-Nam.
Không
cần biết người ký là Chủ-tịch Trần Đức-Lương, Thủ-tướng Phan Văn-Khải
hay Bộ-trưởng Ngoại-giao Nguyễn Mạnh-Cầm, Nguyễn Dy Niên. Tôi xin khẳng
định: Ai ký cũng chỉ là người tuân lệnh Bộ Chính-trị đảng Cộng-sản Việt-Nam.
Những người quyết định là ai?
Ông
Phan Văn-Khải, Nguyễn Mạnh-Cầm ư? Hai ông này không có quyền, dù có
quyền các ông ấy cũng không dám quyết định. Ông Lê Khả-Phiêu quá yếu,
không thể quyết định một mình. Ông Trần Đức-Lương, Nông Đức-Mạnh càng
không có quyền gì.
Vì
vậy tôi mới quyết đoán rằng vụ này do Bộ Chính-tri đảng Cộng-sản chủ
trương. Hiện tất cả các ông trong Bộ Chính-trị thời Lê Khả-Phiêu vẫn còn
sống, rất khỏe mạnh. Khi quyết định nhượng đất, biển cho Trung-quốc các
ông ấy đều biết rất rõ rằng:
- Tinh thần dân chúng bây giờ không phải như dân chúng hồi 1540. Trình độ dân chủ, phương tiện thông tin của đảng viên, của dân chúng vượt xa hồi 1958. Uy tín của Tổng Bí-thư Lê Khả-Phiêu không thể so sánh với Chủ-tịch Hồ Chí-Minh năm 1958. Mỗi vị trong Bộ Chính-trị bây giờ là một mảng, chứ không thể là một khối như Bộ Chính-trị hồi 1958. Các vị trong Bộ Chính-trị thời Lê Khả-Phiêu điều biết trước rằng: Ký hiệp ước nhượng lãnh thổ trong lúc này không thể bịt miệng, dấu diếm đảng viên cũng như dân chúng. Thế nhưng các ông ấy vẫn làm! Vì vậy phải có nguyên do gì trọng đại lắm. Liệu các ông có thể công bố cho quốc dân biết không?
Đến đây một cử tọa nói bâng quơ, câu hỏi 14
- Không lẽ trong Bộ Chính-trị, mà tìm chẳng ra một người yêu nước ư?
Gs TĐS đáp:
- Tôi tin rằng có rất nhiều người đầy tâm huyết. Song họ không thể bơi ngược dòng thác đổ. Nếu như ở Tây-phương, người nào không đồng ý, có thể từ chức. Nhưng ở các nước Cộng-sản thái độ này bị coi là phản động, tính mệnh khó toàn. Chính những vị này đã tiết lộ tin tức vụ nhượng đất ra ngoài.
Kể từ khi ký, dân chúng, đảng viên không được biết nội dung Hiệp-ước nói gì.
Mãi tới tháng 2-2001, Thứ-trưởng Ngoại-giao Lê Công-Phụng, người trực tiếp vụ này mới công bố trên Tạp chí Cộng-sản, Quý-vị có thể tìm thấy bài này trên Internet.
( http://www.cpv.org.vn/tccs/022001/6-lecongphung.htm ) (Phụ bản 1)
Tạp-chí Tư-tưởng Văn-hóa số 3-2001 cũng tóm lược sự kiện. Quý vị có thể tìm trên Internet.
( http://www.cpv.org.vn/anpham/tutuong/032001/13- kyhiepdinh.htm ) (Phụ-bản 2) (5)
Ghi chú (5) của IFA, dành cho bản Việt-Ngữ
Sau khi bài điều trần của chúng tôi bị tiết lộ, báo chí, Internet bình luận sôi sục, thì hai bài này bị xóa bỏ).
- Thời
gian ấy (1999-2000) đảng Cộng-sản lấn át Chủ-tịch Nhà-nước, cũng như
Thủ-tướng nhất. Đến nỗi Chánh-văn phòng Thủ-tướng chỉ vì nói một câu
không mấy lịch sự với người đàn bà có thế lực trong đảng, mà bị bắt giam
không lý do, Thủ-tướng không thể can thiệp cho ông ta tại ngoại.
- Quyền
gần như nằm trong tay ba ông Cố-vấn là cựu Tổng Bí-thư Đỗ Mười, cựu
Chủ-tịch nhà nước Lê Đức-Anh và cựu Thủ-tướng Võ Văn-Kiệt. Ba ông này
như ba Thái-thượng hoàng thời phong kiến. Tuy mang danh Cố-vấn, nhưng ba
ông vẫn còn uy quyền tuyệt đối. Chắc Quý-vị còn nhớ bản điều trần của
tôi vào tháng 9-1997, về vụ Tổng-bí thư Đỗ Mười và Thủ-tướng Võ Văn Kiệt
mật đàm với Chủ-tịch Giang Trạch Dân. (Xin xem phụ bản 3).
- Cũng
trong thời gian ấy, cả thế giới (trừ Trung-quốc) đều có chính sách
ngoại giao rất đẹp với Việt-Nam: Hoa-kỳ (Tổng-thống Bill Clinton),
Liên-Âu, các nước ASEAN đang theo đuổi chính sách ngoại giao rất mềm dẻo
với Việt-Nam. Nhất là Tổng-thống Clinton ký sắc lệnh bỏ cấm vận
Việt-Nam, mở cửa cho sinh viên Việt-Nam sang du học Hoa-kỳ, mở cửa cho
hàng Việt-Nam được nhập vào Hoa-kỳ. Nói tóm lại thời gian từ nửa năm
1999 cho đến cuối năm 2000, Việt-Nam không bị một áp lực quốc tế nguy
hiểm nào, đến độ phải nhượng đất, nhượng biển cho Trung-quốc để được
viện trợ vũ khí, để được che chở.
- Cũng thời gian trên, Trung-quốc, Việt-Nam không có tranh chấp lãnh thổ, không có đụng chạm biên giới, không có căng thẳng chính trị, không có chiến tranh.
Vậy vì lý do nào mà các ông ấy cắt đất, cắt biển cho Trung-quốc?
4.2 - Chi tiết vụ cắt đất.
Vụ
cắt đất ký ngày 30-12-1999, thì tôi được biết tin chi tiết, do hai ký
giả Trung-quốc là bạn với tôi thông báo vào ngày 9-1-2000. Nghĩa là 10
ngày sau. Nhưng mãi đến ngày 14-2-2000, tôi mới có bản hiệp ước bằng cả
hai thứ tiếng Việt, Hoa. Theo tinh thần bản hiệp định thì:
- Việt-Nam nhường cho Trung-quốc dọc theo biên giới, 789 cây số vuông (chứ không phải 720 như tin lộ ra trong nươc), quan trọng nhất là vùng thuộc hai tỉnh Cao-bằng, Lạng-sơn.
- Có mấy hiệp định thư (Photocol) đính kèm về việc thi hành. Quan trọng nhất là:
- Nhượng
vùng Cao-bằng, sát tới hang Pak-bó, nơi Chủ-tịch Hồ Chí Minh ẩn thân
lãnh đạo cuộc kháng chiến. Hang này trở thánh địa của đảng Cộng-sản
Việt-Nam. Trước kia nằm rất xa biên giới (khoảng 50 km), nay nằm sát
biên giới.
- Nhượng vùng đất bằng phẳng thuộc tỉnh Lạng-sơn nơi có cửa ải Nam-quan. (6)
- Nhượng
vùng Cao-bằng, sát tới hang Pak-bó, nơi Chủ-tịch Hồ Chí Minh ẩn thân
lãnh đạo cuộc kháng chiến. Hang này trở thánh địa của đảng Cộng-sản
Việt-Nam. Trước kia nằm rất xa biên giới (khoảng 50 km), nay nằm sát
biên giới.
Ghi chú, (6) của IFA.
IFA
chúng tôi có nguyên văn hai bản Hiệp-định này bằng Hoa-văn, Việt-văn.
Hiện đảng Cộng-sản cũng như nhà nước VN, giữ kín 2 bản văn này, đến nỗi
cấp Bộ-trưởng, Đại-sứ, Ủy-viên Trung-ương đảng bộ cũng không có, nhiều
vị không biết gì cả. Nhiều người Hoa-Việt gửi thư xin hai bản Hiệp-định
này, chúng tôi cũng như Gs. Trần không thể thỏa mãn, vì cho thì vi phạm
tác quyền. Chúng tôi không muốn gây hấn với đảng Cộng-sản của Trung-quốc
và Việt-Nam. Vậy Quý-vị muốn có, xin hỏi tác giả là bộ Chính-trị đảng
CS, bộ Ngoại-giao Trung-quốc cũng như bộ Chính-trị và bộ Ngoại-giao
Việt-Nam.
Đây
là cuộc điều trần rất vô tư, Gs Trần giữ đúng ngôn từ ngoại giao, không
hề có lời lẽ công kích, hay nhục mạ đối với đảng Cộng-sản và nhà nước
Trung-quốc cũng như Việt-Nam. Mục đích của cuộc điều trần chỉ để thính
chúng hiểu uyên nguyên sự thực mà thôi. Đường lối ngoại giao của Liên-Âu
và của chính phủ Pháp đối, Việt-Nam rất mềm dẻo, chưa từng có hành động
hay ý tưởng gây khó khăn cho nước Pháp thoại này. Chúng tôi (IFA), và
Gs. Trần cũng phải tuân hành nghiêm chỉnh.
Về con số lãnh thổ
Ngày
1-2-2002, Ngài Lê Công Phụng, Thứ trưởng Ngoại-giao VN, đặc trách vụ
việc đàm phán với Trung-quốc có lên tiếng với báo chí qua cuộc phỏng vấn
của nữ ký giả xinh đẹp Thu-Uyên (trên Web. Vasc Orient, http://www.Vnn.Vn )
rằng giữa Hoa-Việt có 227 km2 cần giải quyết tranh chấp. Chúng tôi hiểu
là Ngài Lê Công-Phụng muốn nói 227 km2 hiện phải thảo luận. Còn những
vùng mà Trung-quốc đóng quân, được nhượng dần dần từ 1947 đến giờ thì
không tính. Nay hiệp định ký chỉ để hợp thức hóa truyện đã xẩy ra mà
thôi. Có lẽ cách tính này của Ngàii Lê Công-Phụng cao minh hơn, giản dị
hơn chúng tôi. Vì chúng tôi tính theo hiệp ước Pháp-Thanh 1887 và 1895,
cho nên con số của chúng tôi là 789 km2. Sai biệt tới
562 km2. Khi công bố con số này, sở Kỹ-thuật của chúng tôi đã phải tính
toán chi li, kiểm đi kiểm lại. Cách tính căn cứ vào ba bản đồ:
- Ngay khi có bản hiệp định 30-12-1999 Hoa-Việt, sở Kỹ-thuật của chúng tôi đã căn cứ vào bản đồ mới nhất của Trung-quốc đính kèm Hiệp-định. Xin nói thêm là bản đồ của Trung-quốc, Việt-Nam(cs), và các nước Cộng-sản theo hệ thống khác. Chúng tôi phải đổi, thành hệ thống UTMû lệ xích 1/25000 .
- Lại so sánh với bản đồ của Sở địa chánh thời Pháp (1900-1955) (service géographique de l'Indohine) đã đổi ra tỷ lệ xích 1/25000 hệ UTM. Tức là bản đồ theo hiệp ước Pháp-Thanh 1887 và 1895, sau đó được thi hành nghiêm túc suốt thời gian 1987-1955. Bản đồ này rất đúng, bằng cớ là trong chiến tranh Đông-dương, quân đội Pháp và Quốc-gia Việt-Nam đã dùng cho Pháo-binh, Không-quân tác xạ, rất chính xác.
- Trong chiến tranh 1960-1970, VNCH có hẳn một Nha Địa-dư Quốc-gia tại Đà-lạt. Cơ quan này căn cứ vào đường phân ranh của Pháp, rồi sửa đổi những biến đổi do thời gian, do khí hậu, được vệ tinh Hoa-kỳ chụp không ảnh trao cho để vẽ lại. Hồi trước 1975 quân đội VNCH, Hoa-kỳ, Đại-hàn, Thái-lan, Úc-đại-lợi, Tân-tây-lan; đã dùng cho Pháo-binh tác xạ, Không-quân oanh tạc rất chính xác.
Sau
khi đo, chúng tôi tìm thấy có 789 Km2 trước kia thuộc lãnh thổ Việt,
nay theo hiệp ước 30-12-1999 thuộc Trung-quốc. Trong khi những bài công
kích của đối lập ở trong nội địa VN gửi ra là 720 km2, sai biệt với con
số của chúng tôi là 69 km2. Còn theo Đại-tá Quân-đội CHXHCNVN Bùi Tín
thì con số là 900 km2. Phải hiểu rằng Đại-tá Bùi Tín là người từng qua
lại biên giới Hoa-Việt nhiều lần, ông lại lớn tuổi, không thể đưa ra con
số hàm hồ. Nhưng tại sao lại có sự sai biệt:
- Con số của Ngài Lê Công-Phụng và Đại-tá Bùi Tín 673 km2 (227-900).
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Phản Hồi