Larry Berman - Trần Quốc Việt (Danlambao) lược dịch - "Đối
với các ông chúng tôi không hơn gì là chấm nhỏ trên bản đồ thế giới.
Nếu các ông muốn từ bỏ cuộc đấu tranh, thì chúng tôi sẽ chiến đấu một
mình cho đến khi nào vô phương, và rồi chúng tôi sẽ chết... Đối với
chúng tôi, sự chọn lựa là giữa sống và chết. Đối với chúng tôi ký vào
hiệp định, mà chẳng khác gì đầu hàng tức sẽ chấp nhận bản án tử hình, vì
sống mà không có tự do là chết. Không, sống như thế còn tệ hơn cả
chết!" - Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
*
Vào ngày 18 tháng 10, Henry Kissinger bay trực tiếp từ Paris đến Sài Gòn
để báo cáo Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về hiệp định hòa bình. Buổi họp
ngày 19 tháng 10 kéo dài gần hai giờ. Sau khi lắng nghe Kissinger thuyết
trình, ông Thiệu muốn có bản thảo hiệp định. Ông được trao cho bản
tiếng Anh.
Cuộc họp trở nên xấu đi. Đầu tiên, ông Hoàng Đức Nhã, cố vấn cho Tổng
thống Thiệu, chỉ được trao cho bản tiếng Anh. Ông Nhã phẫn nộ đáp lại: "Chúng tôi không thể thương lượng số phận của nước mình bằng tiếng nước ngoài!" Ông rất tức giận đòi có bản tiếng Việt. Ông Nhã muốn thấy bản tiếng Việt mà những người cộng sản đã trao cho Kissinger.
Kissinger nói, "À, chúng tôi quên." Ông Nhã đáp: "Ông muốn nói gì thế, ông quên ư?". Rồi ông Nhã chế giễu toàn bộ quá trình hội nghị và ông nói với Kissinger, "Ông muốn bảo tôi người Mỹ có thể hiểu tiếng Việt hơn người Việt? Chúng tôi muốn thấy bản tiếng Việt."
Về sau khi nhận được bản tiếng Việt, ông Nhã mới nhận ra rằng nhân dân
Miền Nam được yêu cầu ký vào bàn hiệp định mà tương đương như bản tuyên
bố đầu hàng.
Trong buổi họp ấy ông Nhã nhớ lại, "Kissinger nói giải pháp mới này
khiến vị thế của Bắc Việt suy yếu hoàn toàn, và ngay cả Lê Đức Thọ còn
ôm tôi khóc. Lúc đó tôi nhìn ông ta chăm chú mà lòng rất hoài nghi. Tôi
nói, Lê Đức Thọ? Một tay cộng sản già giặn? Mà khóc sao? Rồi tôi nói đùa
mà ông ta không thích. Tôi nói: Coi chừng nước mắt cá sấu đấy."
Sau này, ông Thiệu bảo ông Nhã, "Tôi muốn đấm vào miệng Kissinger."
Còn John Negroponte, trợ lý cho Kissinger, hồi tưởng lại cuộc họp ấy theo ngôn ngữ ngoại giao:
"Bầu không khí cuộc họp ấy rất căng thẳng và rất khó chịu. Chúng tôi
đến Sài Gòn vào tháng 10 năm 1972 mang theo toàn bộ bản hiệp ước kết
thúc chiến tranh mà có quan hệ trực tiếp, thật sự quan hệ gần như hoàn
toàn đến sự tồn vong quốc gia của họ trong tương lai. Thế mà chúng ta
yêu cầu họ ký ngay vào hàng cuối cùng. Vì thế bầu không khí rất căng
thẳng, và Tổng thống Thiệu phản đối rất dữ dội bản thảo hiệp định."
Ông Nhã thức khuya để đọc bản dịch tiếng Anh và ông nhận ra rằng có những điểm mà "chúng
tôi đã hoàn toàn bác bỏ trong các cuộc mật đàm trước, và chúng tôi đã
nghĩ rằng phía Mỹ đã đổng ý với chúng tôi là không nêu ra những vấn đề
ấy nữa, nhưng bây giờ chúng tôi thấy rằng những người cộng sản lại nêu
ra những vấn đề ấy dưới hình thức này hay hình thức khác."
Chẳng hạn, bản thảo hiệp định đề cập đến ba quốc gia Đông Dương: Lào,
Cambodia và Việt Nam. Như vậy, ngay từ đầu Việt Nam được mô tả như là
một nước, chứ không phải hai nước. Nếu thế làm sao quân đội của nước
mình rút ra khỏi nước mình được? Từ đấy, ông Nhã hỏi Kissinger chuyện gì
đã xảy ra với "bốn quốc gia". Kissinger đáp là do đánh máy sai. Ông Nhã
cười "Tôi biết tẩy các ông rồi. Số "3" không được viết ở đấy. Cái từ
"ba" viết ra không phải là con số, nó là từ ba, B- A. Cho nên đây là
điều chúng tôi không thích."
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và ông Hoàng Đức Nhã |
Cuối cùng sau khi trình bày xong, ông Nhã đưa ra 64 điểm cần phải thay đổi.
Cuộc họp diễn ra cực kỳ tranh cãi, nhưng Tổng thống Thiệu vẫn giữ nguyên
lập trường. Ông Nhã báo cho Tổng thống Thiệu biết Kissinger đến Sài Gòn
để phản bội miền Nam Việt Nam, và vì đây là vấn đề sinh tử cho nên Tổng
thống cần nghĩ ra chiến lược nhằm đối phó với Kissinger.
Ông Nhã thuyết phục Tổng thống Thiệu hủy bỏ cuộc họp với Kissinger vào cuối ngày. Kissinger nổi giận, nói với ông Nhã "Tôi là Đặc sứ của Tổng thống Hoa Kỳ. Ông biết không nên đối xử với tôi như kẻ sai vặt. Tôi phải gặp Tổng thống Thiệu tối nay." Ông Nhã cứng rắn đáp trả: "Đừng
cảm thấy bị xúc phạm, tôi không bao giờ coi ông là kẻ sai vặt. Tổng
thống không thể tiếp ông vì quả thực có cuộc họp với các tướng lãnh.
Cuộc họp sẽ kéo dài bốn giờ."
Kissinger bấy giờ ắt hẳn nhận thức Tổng thống Thiệu sẽ từ chối ký hiệp
định. Cho nên ông rời Sài Gòn sang Cambodia, nơi ông và Thủ tướng Lon
Nol nâng ly chúc mừng "hòa bình ở Việt Nam". Khi ở Phnom Penh Kissinger
khiến Lon Nol có ấn tượng rằng Tổng thống Thiệu chấp thuận hiệp định.
Khi biết chuyện, Tổng thống Thiệu lại càng tức giận trước sự trân tráo
của Kissinger.
Hòa bình vẫn còn mờ mịt. Vào ngày 21 tháng Mười Kissinger trở về từ
Phnom Penh và đi thẳng đến gặp Tổng thống Thiệu. Trong tâm trạng "căng
thẳng và rất khích động", Tổng thống Thiệu nghĩ bản hiệp định được đưa
ra này thậm chí còn tồi tệ hơn hiệp định 1954: "Tôi có quyền nghi ngờ
Mỹ đã âm mưu với Liên Xô và Trung Cộng. Vì các ông thừa nhận sự hiện
diện của Bắc Việt ở đây, cho nên nhân dân miền Nam cho rằng Hoa Kỳ đã
bán đứng họ và Bắc Việt đã thắng cuộc chiến."
Ông nói tiếp "Tiến sĩ Kissinger nói ngày hôm kia rằng Lê Đức Thọ bật
khóc, nhưng tôi có thể đoan chắc với ông ta rằng nhân dân Miền Nam là
những người đáng khóc, và người nên khóc là tôi... Nếu Mỹ muốn bỏ rơi
nhân dân Miền Nam, đó là quyền của họ!"
Tổng thống Thiệu nói dù chuyện gì xảy ra ông cũng cảm ơn Tổng thống
Nixon về tất cả những gì ông ta đã làm cho Miền Nam Việt Nam. Ông biết
Nixon phải hành động vì quyền lợi riêng của mình và vì quyền lợi của
nhân dân ông ta. Ông cũng phải hành động vì quyền lợi của nhân dân Miền
Nam Việt Nam.
Kissinger nói với Tổng thống Thiệu con đường Tổng thống Thiệu đang đi sẽ
là con đường tự sát. Tổng thống Thiệu đáp rằng có từ 200.000 đến
300.000 quân Bắc Việt ở miền Nam và Hội đồng Hòa giải và Hòa hợp Dân tộc
gồm có ba thành phần. "Nếu chúng tôi chấp nhận văn kiện như hiện nay, chúng tôi sẽ tự sát- và tôi sẽ tự sát."
Kissinger cố gắng lần cuối cùng để thuyết phục Tổng thống Thiệu.
Kissinger nói trong vòng sáu tháng, nếu Tổng thống Thiệu không ký, quốc
hội Mỹ sẽ cắt viện trợ. Bất chấp những lời khẩn cầu của Kissinger, ông
Thiêu vẫn từ chối ký hiệp định.
Kisinger nói với ông Nhã, "Tổng thống đã chọn con đường tử vì đạo.
Nếu chúng tôi phải làm, Hoa Kỳ có thể ký hiệp ước hòa bình riêng với Hà
Nội. Còn về phần mình, tôi nhất định không bao giờ đặt chân lại Sài Gòn.
Sau vụ này. Đây là thất bại lớn nhất trong nghề nghiệp ngoại giao của
tôi!"
"Chúng tôi rất lấy làm tiếc", Ông Nhã đáp lời, "nhưng ông phải nhớ chúng tôi có cả quốc gia để bảo vệ!"
Tổng thống Thiệu chỉ bản đồ nói, "Đối với các ông chúng tôi không hơn
gì là chấm nhỏ trên bản đồ thế giới. Nếu các ông muốn từ bỏ cuộc đấu
tranh, thì chúng tôi sẽ chiến đấu một mình cho đến khi nào vô phương, và
rồi chúng tôi sẽ chết... Đối với chúng tôi, sự chọn lựa là giữa sống và
chết. Đối với chúng tôi ký vào hiệp định, mà chẳng khác gì đầu hàng tức
sẽ chấp nhận bản án tử hình, vì sống mà không có tự do là chết. Không,
sống như thế còn tệ hơn cả chết!"
Kissinger trở về Washington vào ngày 23 tháng Mười mà lòng tràn ngập thất vọng.
Ngày 24 tháng Mười Tổng thống Thiệu phát biểu với nhân dân Việt Nam
trên hệ thống truyền thanh và truyền hình trong bài diễn văn hai giờ
đồng hồ để bàn về hiệp định có thể có trong tương lai. Ông nói lý do
chính người cộng sản muốn ngừng bắn là để đuổi tất cả người Mỹ đi nhằm
để dễ dàng thôn tính Miền Nam. Ông cảnh cáo về nền hòa bình giả. Ông
muốn đồng bào ông biết rằng ông không bao giờ cản trở nền hòa bình nào
thật sự lâu dài và ông sẵn sàng từ chức một khi nền hòa bình ấy được bảo
đảm.
Ông ngừng nói hai lần để lấy khăn tay lau mồ hôi trên trán.
*
Larry Breman là giáo sư chính trị ở
Đại học University of California, Davis. Ông dùng nhiều tài liệu lưu
trữ được coi là bí mật trước đây để viết tác phẩm này. Tác phẩm được coi
là tác phẩm trung thực nhất bàn về Hiệp định Hòa bình Paris.
Nguồn: Lược dịch từ tác phẩm Không Hòa
bình, Không Danh dự (No Peace, No Honor) của giáo sư Larry Berman,
chương 9, nhà xuất bản The Free Press, 2001.
*
Bản tiếng Việt:
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Phản Hồi