Giao
Chỉ, San Jose.
Lệnh khai hỏa
Lời nói đầu
Trưa thứ bảy, cuối tuần tháng 1-2008,
hội hải quân Bạch Đằng đến họp tại Viện Bảo Tàng để thảo luận về việc thiết lập
một sa bàn Hoàng Sa. Các bạn trao tặng bộ quân phục thủy thủ cùng rất nhiều
hình ảnh và tác phẩm liên quan đến trận hải chiến 34 nằm về trước. Những tác
phẩm viết về Hải quân Việt Nam Cộng Hòa và đặc biệt có trên mười tác giả viết
về biến cố Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974. Hồi ký của tư lệnh hải quân vùng
1, của vị chỉ huy hải đội Hoàng Sa, của trung tâm trưởng hành quân biển tại Sài
Gòn, các hạm trưởng, sỹ quan trên chiến hạm tham chiến số 4, 5, số 10 và 16,
của biệt kích trên đảo, sĩ quan truyền tin trên soái hạm, của thủy thủ trôi
giạt trên biển, của anh em đoàn viên và địa phương quân bị bắt tù binh đưa về
Trung Quốc.
Khối tài liệu hết sức phong phú trên
ngàn trang phải đọc suốt cả tuần lễ chưa hết. Ðặc biệt trong khi quí vị cấp
trên viết còn dè dặt thì anh em cấp dưới viết ra tất cả mọi chi tiết hết sức
chân thật và rõ ràng. Những anh em mang đến tài liệu cho chúng tôi, ngày xưa
vốn là các thiếu tá và cấp úy trẻ trung của biển cả, ngày nay tuổi đã về chiều
mà tấm lòng nặng chĩu tâm tư khi nghe tin các hải đảo xa xôi lại một lần nữa
rơi vào tay địch. Trong số các chiến hữu có mặt tại San Jose, chúng tôi đã gặp được một người,
hết sức tình cờ và hết sức đặc biệt.
Người chỉ huy pháo HQ 16
Ðó là hải quân đại úy Ðoàn viết Ất,
nguyên sĩ quan pháo thủ của HQ 16,con tầu mang tên danh tướng Lý thường Kiệt.
Năm 1974, khi tàu rẽ sóng đi Hoàng Sa, trung úy Ất tưởng chỉ làm một chuyến hải
hành tiếp tế như thường lệ, nào ngờ ông đã tham dự vào trận đánh lịch sử.
Chuyến về trên con tàu bị thương với cõi lòng tan nát vì đã bỏ lại đồng đội
trên hải đảo và biển cả. Trung úy Ất cùng một số hải quân được tuyên dương anh
hùng, thăng cấp đặc cách tại mặt trận. Ngày nay, ông Ất đang đóng vai một người
dân tỵ nạn hiền lành sống rất bình dị bên cạnh chúng ta. Ai biết đâu con người
ấy, ngày xưa cũng đã từng là một chiến sĩ dũng cảm của hải quân. Trong chiến
trường, binh thư viết rằng khi lâm trận, cấp úy ở ải địa đầu là những người
quyết định thắng bại. Trên các chiến hạm vào ngày đầu năm 74, sống chết của con
tàu trông cậy vào các trung úy chỉ huy pháo thủ. Trên chiến hạm HQ 16 vào buổi
sáng hôm đó, số mạng trong tay Trung úy Ất, ngồi bên cây đại bác 125 ly, nạp
đạn chạm nổ, hướng thẳng vào đài chỉ huy của con tàu địch trước mắt. Sẵn sàng
chuẩn bị bắn trực xạ.
Cuộc đời Ðoàn viết Ất
Sau trận Hoàng Sa, miền Nam ca ngợi
chiến công của hải quân anh hùng. Trong số các sĩ quan con sống mà được vinh
thăng có trung úy Ðoàn viết Ất. Ất người Nam Ðịnh, 54 theo cha mẹ di cư vào Sài
Gòn. Sinh viên đại học Vạn Hạnh. Năm 20 tuổi vào hải quân. Học thêm anh văn tại
Sài Gòn rồi thụ huấn căn bản quân sự tại Quang Trung. Năm 70 được gửi đi học
tại trường hải quân Hoa Kỳ khóa 4-OCS. Vào thời kỳ đó sinh viên sỹ quan hải
quân Ðoàn viết Ất đã có dịp học lái tàu Mỹ tại vùng Vịnh Cựu Kim Sơn. Khi về
nước, chuẩn úy Ất nhờ có đệ tam đẳng Thái cực đạo nên được làm huấn luyện viên
võ thuật. Cuộc đời đưa đẩy, trải qua các đơn vị, lên thiếu úy rồi trung úy thì
bắt đầu xuống HQ 16 làm sỹ quan trách nhiệm dàn pháo cho chiến hạm. Các vũ khí
dưới tay gồm có cây 125 ly, lớn hơn cả đại bác 105 của bộ binh. Những cây 40 ly
một nòng và cây 40 ly nòng ghép đôi. Các bách kích pháo. Súng cá nhân, áo giáp
và nón sắt. Cùng với các đoàn viên xạ thủ đầy kinh nghiệm, trung úy Ất chỉ huy
anh em vào nhiệm sở tác chiến với một tinh thần hăng hái rất hào hùng. Khi con
tàu Lý thường Kiệt phải đoạn chiến về đến bến bờ quê hương, nhớ lại cảnh chiến
hữu bị bỏ lại, lòng dạ hết sức não nề. Một năm sau, 1975 theo hạm đội hải hành
chuyến cuối cùng anh bỏ lại vợ con, vì vậy đại úy Ất quyết định từ giã hải quân
tại Côn Sơn, xuống tàu trở lại Việt Nam. Ðây là một quyết định sai lầm phải trả
giá 6 năm tù gọi là tập trung cải tạo trên miền biên giới Bắc Việt. Ngay sau
khi được trả tự do, cựu đại úy hải quân đã có nhiều nơi móc nối để lái tàu vượt
biên. Năm 1983 cả gia đình đến Bidong và sau cùng về định cư tại San Jose. Hai mươi năm
qua chỉ làm một việc, cho một hãng. Nghề sửa máy điện tử. Bây giờ ông già 60
tuổi theo phái tu thiền tại gia, tuyệt thực mỗi buổi chiều. Buổi tối ngày 15
tháng giêng năm 2008 gần 34 năm trước sắp đến giờ khai hỏa trận Hoàng Sa, công
dân Mỹ gốc Việt tên At Doan ngồi nhớ lại lúc con tàu lướt sóng vào vùng hải
chiến giữa các đảo Vĩnh Lạc, Cam Tuyền, Quang Hòa và Duy Mộng.
Di chúc của tiền nhân.
Với ngàn năm đô hộ giặc Tàu, Việt Nam trải qua
bao phen chống xăm lăng. Từ nhà Hán, nhà Ngô cho đến giặc Mông Cổ. Rồi nhà
Minh, nhà Thanh. Quân dân ta phải chống giặc Bắc phương suốt 4 ngàn năm lập
quốc. Trận hải chiến cuối cùng vào đời nhà Trần cách đây 7 thế kỷ. Vua Trần
Nhân Tông đã để lại di chúc như sau:
“Các người chớ quên nước lớn thường làm điều
trái đạo. Họa muôn đời của ta là Trung
Hoa. Họ không tôn trọng quy ước và biên giới. Luôn luôn bày đặt chuyện để gây hấn.
Không thôn tính được thì gặm nhấm đất đai của ta. Vậy các ngươi phải nhớ lời ta
dặn. Một tấc đất cũng không để lọt vào tay kẻ thù. Ðây là di chúc cho con cháu
muôn đời." Trần
Nhân Tông (1279-1293)
Trận
Hoàng Sa
Vào lúc 10
giờ sáng ngày 19 tháng 1 năm 1974, trận Hải chiến lịch sử giữa Hải quân Việt
nam Cộng Hòa và Hải quân Trung Cộng diễn ra tại Hoàng Sa. Nguyên do vì sao? Di
chúc của vua Trần Nhân Tông để lại hơn 700 năm đúng từng chữ một. Vẫn là họa
phương Bắc. Nước lớn không tôn trọng quy ước. Bày đặt chuyện gây hấn. Gặm nhấm
đất của ta. Trận hải chiến hết sức anh hùng của lực lượng hải quân nhỏ bé VNCH
đã khai diễn với anh khổng lồ Trung Quốc. Trước khi nổ súng, chiến hạm hai bên
đã cài răng lược, vì vậy chỉ vài giây phút đầu tiên là quyết định trận đánh. Gần
nhau đến nỗi đại bác của ta bắn trượt tàu địch đã xéo qua tàu bạn.Trong vòng 30
phút đầu tiên, chiến hạm HQ 10 bên ta bị bắn trúng đài chỉ
huy và hoàn toàn bất khiển dụng. Hạm trưởng tử trận chết theo tàu, hạm phó ra lệnh đào thoát, sau đó
ông phó chết trên xuồng cấp cứu vì vết thương quá nặng. HQ 16 sau khi hạ được
một chiến hạm của địch cũng bị thương rất nặng. Hạm trưởng và thủy thủ đoàn cố
cứu con tàu ra khỏi chiến trường. Bên địch có hai chiến hạm bốc cháy và hai tàu
còn lại chịu thương vong nhưng vẫn còn chuyển vận. Những hình ảnh sau cùng ghi
nhận được hết sức hào hùng nhưng đồng thời cũng hết sức thương cảm. Hải quân
đào thoát từ HQ 10 ngồi trên bè cấp cứu bị tàu địch bắn theo. Nhưng đặc biệt
còn thấy chiến hữu từ chiến hạm không bỏ tàu vẫn tiếp tục tác xạ qua tàu địch.
Bút ký của
người còn sống có ghi rõ cả tên các thủy thủ Việt Nam đang bắn những viên đạn
sau cùng. Nước biển trên đầu ngọn sóng làm nhạt nhòa nước mắt của những lính bỏ
tàu. Truyện kể của những anh em từ hải đảo xuống bè di tản khi thấy bên ta bắn
chiến hạm địch bốc cháy đã cùng nhau cất tiếng hát trên biển Hoàng Sa.
Bài ca bất
hủ đó là bản Việt Nam, Việt Nam. Hãy tưởng tượng giây phút lạ lùng giữa trùng
khơi dậy sóng với lửa đạn vang trời, ai cất được tiếng hát.. Nghe tự vào đời.. Việt Nam nước tôi...
Năm 74, dầu sôi lửa bỏng.
Tháng giêng năm 1974 không phải là
lúc Miền Nam
thái bình thịnh trị. Hiệp ước Ba Lê đã ký xong nhưng hai bên vẫn còn chiến đấu
trong trận giành dân lấn đất. Với chương trình Việt Nam hóa chiến tranh, Hoa kỳ đã rút
hết quân về. Xa hơn nữa, ngay từ năm 1970, Mỹ đã tuyên bố dứt khoát không tham
dự vào cuộc tranh chấp các hải đảo ở biển Ðông. Trong khi quân Mỹ rút thì Việt
Nam Cộng Hòa bùng lên tia hy vọng mới. Tin biển Ðông có dầu làm tổng thống
Thiệu nói với nội các là dường như ông Trời ngó lại. Một thùng dầu thô được
lệnh đem lên đốt tại Nghĩa trang quân đội Biên Hòa trong buổi lễ tưởng niệm để
linh hồn 16 ngàn tử sĩ phù hộ cho đất nước một tương lai tốt đẹp. Nhưng chính
niềm vui ngắn ngủi đã nằm trong thiên tai. Trường Sa là nơi có nhiều triển vọng
của kho tàng đáy biển. Muốn lấy Trường Sa thì Trung Cộng phải thôn tính Hoàng
Sa.
Trong lúc VNCH còn phải lo trong nội
địa thì Trung Quốc cho hải quân đóng vai ngư phủ xâm nhập phía đông của quần
đảo. Ðúng như vua Trần đã nói, chúng cứ gặm nhấm dần dần. Căn cứ vào địa lý
nhân văn, căn cứ vào di tích lịch sử, căn cứ vào hiện trạng thềm lục địa, dứt
khoát toàn bộ Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Từ ngàn xưa cho đến ngàn sau.
Nhưng đất nước đang chiến tranh, sức đâu mà có đủ phương tiện trấn giữ cả trăm
hải đảo cô quạnh giữa trùng khơi. Vì vậy, thừa nước đục thả câu, các quốc gia
lân bang xâu xé. Từ Trung Hoa đỏ của Bắc Kinh cho đến Trung Hoa vàng của Ðài
Bắc. Rồi Mã Lai, Indo và Phi luật tân đều nhào vô giành hải đảo. Nhưng có kế
hoạch và tham lam nhất vẫn là người Tàu. Từ Trung Hoa ngày xưa cho đến Trung
Cộng ngày nay, mộng bá quyền của người phương Bắc luôn luôn là cơn ác mộng của
phương Nam.
Châu chấu đá voi
Ngày 15 tháng 1 năm 1974 chiến hạm
HQ 16 lên đường ra Hoàng Sa đưa địa phương quân Quảng Nam ra thay phiên trấn
thủ lưu đồn. Ngày 17 tháng 1 khi đổ bộ lên đảo đã gặp Hồng quân. Từ trước đến
nay vẫn gặp dân đánh cá xua đuổi là chúng bỏ đi, những lần này lại là hải quân
Trung Cộng. Ðô đốc Hồ văn Kỳ Thoại tư lệnh hải quân vùng I cảm thấy chuyện bất
thường. Nhân lúc tổng thống Thiệu ra kinh lý, nội vụ được trình trực tiếp. Sau
phần trình bày của vị tướng hải quân, ông Thiệu ngồi xuống lấy giấy bút viết
tay trong 15 phút một bản văn lịch sử. Ðây là chỉ thị căn bản của trận hải
chiến duy nhất đã xảy ra giữa Việt Nam và Trung Hoa trong thế kỷ thứ
20.
Tướng Thoại đã ghi lại trong tác
phẩm "Can trường trong chiến bại" chương 16 đại ý như sau.
Lệnh
viết tay của trung tướng Thiệu chỉ thị áp dụng các biện pháp xua đuổi ôn
hòa, bắn dọa cảnh cáo và sau cùng thì dùng vũ khí để bảo vệ lãnh thổ. Quyết
không để mất một tấc đất nào.
Tất cả mọi người hiện diện đều không
có ý kiến. Các tướng lãnh và phái đoàn chính phủ tháp tùng không ai lên tiếng.
Không có bàn thảo gì hết. Xem ra ông Thiệu hết sức cô đơn và cương quyết trong
quyết định lịch sử rất có thể bùng nổ lớn mà không ai tiên đoán được. Vẫn theo
bản tính của ông, không ra lệnh chi tiết về việc khai hỏa. Không cần thảo luận
về việc khả năng hùng mạnh của toàn thể hải quân Trung Cộng. Chỉ riêng hạm đội
Hải Nam cũng có thể tung ra
10 chiến hạm phục kích vây chung quanh hạm đội Việt Nam và diệt gọn. Rõ ràng là một
quyết định châu chấu đá voi, dựa trên tình tự dân tộc với mối thù từ ngàn năm
trước.
Sau cùng châu chấu cũng đành phải đá
voi.
Hạm đội Hà văn Ngạc.
Từ Sài Gòn đại tá Hà văn Ngạc bay ra Ðà Nẵng nhận
lãnh chức vụ chỉ huy cuộc chiến lấy lại Hoàng Sa. Ðô đốc Hồ văn Kỳ Thoại tiễn
ông đại tá Sài Gòn lên HQ 5, mang hiệu kỳ soái hạm lên đường. Chia tay trên cầu
tàu căn cứ Ðà Nẵng, ông Thoại viết lại rằng đôi mắt chiến hữu nhìn nhau, cùng
cảm thấy sắp có biến cố lịch sử. Lệnh phải bảo vệ đất nước được ghi rõ ràng từ
tổng tư lệnh. Quân xâm lăng lần này đâu có dễ thuyết phục. Hoàng Sa là con
đường đi xuống Trường Sa, mỏ dầu tương lai của cả Ðông nam Á. Hoa Kỳ lại xác
nhận là không can thiệp. Giặc Tàu đã chuẩn bị cuộc xâm lăng chắc chắn sẽ không bỏ đi. Lính thủy Việt Nam với 4 con
tàu cũ sẽ lâm chiến trong hoàn cảnh hết sức cô đơn trên biển cả mênh mông. Từ
tướng cho đến quân, ai nấy đều biết rằng phải khai hỏa trước. Không thể bắn
cảnh cáo dọa dẫm gì hết. Tiên hạ thủ vi cường. Ðiều quan trọng là khai hỏa vào
lúc nào và ai sẽ là người ra lệnh khai hỏa. Ðại tá Hà văn Ngạc xuống con tàu
mang tên danh tướng Trần bình Trọng, phen này nếu chẳng may sa vào tay địch
chắc lại phải làm quỉ nước Nam,
còn hơn làm vương đất Bắc.
Khói lửa biển san hô.
Buổi sáng hôm đó trời trong sáng,
vào lúc 10 giờ thì tàu hai bên đã gần nhau. Bên địch bên ta kèm nhau từng chiếc
một. Ngẫu nhiên mỗi bên đều có 4 chiến hạm. HQ 16 có HQ 10 bên tay mặt làm
thành phân đội số 2. Soái hạm HQ 5 đi với HQ 4 là phân đội 1 vòng xuống phía
đông nam đánh vào đảo Quang Hòa. Lập tức 2 tàu địch tách ra ứng chiến. Hỏa lực
của hai bên tương đương, nhưng tàu địch tối tân hơn, chạy nhanh hơn, thân nhỏ
sàn tàu thấp tạo thành mục tiêu di động và nhỏ bé hơn chiến hạm của Việt Nam. Các vị chỉ
huy của bên ta đều dự trù sẽ nổ súng trước khai thác yếu tố bất ngờ. Vả lại,
địch là kẻ xâm lăng, chiếm đất ta, ta có quyền nổ súng. Lúc đó Trung úy Ất 24
tuổi, ngồi trấn thủ cạnh cây đại bác quyết định chiến trường với 125 ly nòng dài. Phía trước mặt là 2 tàu chiến của Trung
Cộng chế ngự trước đảo Duy Mộng. Trung tá Lê văn Thự trên con tàu Lý Thường
Kiệt đã xoay trở mấy ngày qua nên quen thuộc với khu vực đầy bãi đá ngầm và san
hô. Pháo đội trưởng rất tin tưởng vào dàn xạ thủ nhiều kinh nghiệm với những
năm yểm trợ hải pháo cho bộ binh vùng duyên hải Trung phần. Các hạ sĩ quan đều
vững tay nghề và tinh thần hết sức cao. Cũng có thể chưa thấy quan tài chưa đổ
lệ.
Thực sự thì cả hai bên đều chưa hề
có kinh nghiệm hải chiến trên biển cả. Sách vở và chỉ thị dùng đạn xuyên phá
nhưng trung úy Ất cho nạp toàn đạn chạm nổ. Gần thế này mà xuyên phá thì hỏng
hết. Phải chạm nổ mới có kết quả. Lại có lệnh bắn yểm trợ cho bộ binh trên đảo
trước. Mấy bác hạ sĩ quan thâm niên đến bên cạnh thì thào vào tai anh trung úy
trẻ. Ta cứ nhằm vào đài chỉ huy mà ra tay trước. Nếu cứ phơi mình ra mà bắn yểm
trợ lên đảo thì chết hết còn đâu mà yểm trợ bộ binh. Nhớ lại chuyện 34 năm
trước, ông Ất kể rằng, chúng tôi cứ hướng vào đài chỉ huy của tàu địch. Ðịch di
chuyển là các nòng súng 125 và 40 ly theo sát. Phía bên địch cũng quay súng
hướng về chúng tôi như vậy. Giây phút nghẹt thở kéo dài. Lệnh từ soái hạm cho
HQ 10 bắn trước. Nghe tiếng nổ là các tàu khai hỏa đồng loạt. HQ 16 hạ được một
tàu địch và phía bên phân đội 2 của HQ4 và 5 bắn cháy một tàu. Ngay sau đó thì
HQ 10 bị địch bắn xập đài chỉ huy.
Trong hải chiến, mục tiêu chính là
đài chỉ huy, nơi tập trung bộ phận lái tàu, hệ thống điện, truyền tin. Kế tiếp
là dàn pháo của tàu địch. Phần còn lại nằm dưới mặt nươc, phải tấn công bằng
thủy lôi nhưng chiến hạm không được trang bị. Súng bắn qua lại như mưa. Trung
úy Ất thấy rõ hai chiến hạm địch bốc cháy. Bên HQ 10 có lệnh bỏ tàu, tình thế
rất bi thảm. Cùng lúc đó HQ 16 bị trúng thương nặng, lệnh bỏ tàu đã ban hành
những sau đã kịp thu hồi và cố gắng xoay trở để rời khỏi chiến trường. Hai
chiến hạm của phân đội 1 cũng đã trên đường triệt thoải khỏi vùng hải chiến.
Hai chiến hạm địch còn lại cũng bị thương nặng nên không đủ sức truy kích. Nếu
không chắc chắn HQ 16 không thể tiếp tục chiến đấu để tồn tại. Con tàu chỉ còn
một máy, không có điện phải vận chuyển bằng tay, cố lết ra khỏi quần đảo Hoàng
Sa.
Rời khỏi trận địa khoảng 11 giờ
sáng, đại úy Ất còn nhớ lúc 3 giờ chiều chưa ra khỏi chiến trường. Nhìn về phía
sau thật xa vẫn còn thấy chiến hữu trên đảo vẫy tay gọi tàu vào đón. Con tàu
không còn khả năng tự xoay trở nên đã đành đoạn bỏ lại đoàn viên tuyệt vọng mỗi
lúc một xa dần. Sang ngày hôm sau toàn thể hạm đội Hải Nam của Trung
Cộng mới ào ạt tiến đến và bắt tất cả các quân nhân của ta đem về lục địa. Sau
đó trao trả tại Hồng Kông. Còn các chiến binh thả trôi trên bè cấp cứu đã nhờ
ngọn gió Ðông thổi vào đất liền, trôi giạt cho đến khi tàu buôn và ghe chài vớt
được trả về cho đơn vị.
Giấc mơ của Ðại úy Ất
Trung úy Ðoàn viết Ất với chiến công
trên HQ 16 trong trận Hoàng Sa đã được đặc cách lên đại úy. Chính vì cấp bậc
này, cộng thêm khả năng lái tàu Mỹ, ông được cộng sản gia tăng thêm 3 năm thành
6 năm “cải tạo”. Khi ra tù, lại nhờ khả năng lái chiến hạm nên bà con móc nối
cho lái ghe vượt biên mới có cơ hội trở lại vịnh Cựu Kim Sơn quen biết từ năm
70.
Ba mươi tư năm sau, bác Ất quê Nam
Ðịnh ngồi nhớ lại hình ảnh con tàu HQ 10 nằm trên biển san hô. Biết rằng bây
giờ ta đánh thì không lại quân Tàu, những vật đổi sao rời, cũng có ngày nước
Trung Hoa chia năm xẻ bảy. Việt nam hậu sinh lấy lại được Hoàng Sa sẽ trục con
tàu anh hùng lên làm thành một đài kỷ niệm như người Mỹ đã làm ở Trân châu Cảng
xứ Hạ Uy Di. Ai mà biết giấc mộng đó sẽ không phải là thực. Trong khi chờ đợi,
đại úy Ðoàn viết Ất sẽ cùng đại úy hải quân Phạm bách Phi làm một sa bàn Hoàng
Sa cho viện Bảo tàng để con cháu thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam đến xem ông cha ta
ngày xưa châu chấu đá voi ra làm sao.
Lệnh khai hỏa
Khi đặt bút viết bài này có tựa đề
là Lệnh Khai Hỏa. Tác giả là một chiến binh lục quân chân đất, hoàn toàn không
có kiến thức hải quân nên chỉ xin lạm bàn chút đỉnh. Lệnh khai hỏa thực sự bắt
đầu từ đâu và vào lúc nào? Ðề đốc Kỳ Thoại viết trong chương sách về trận Hoàng
Sa có ghi rằng đại tá Ngạc chỉ huy hạm đội xin ông lệnh khai hỏa. Qua máy
truyền tin tiếng súng bắn tại Hoàng Sa, đại tá Ngạc mở lớn cho ông Thoại nghe
thấy. Bút ký của sĩ quan truyền tin trên HQ 5 cũng ghi rõ đoạn này. Tài liệu
bằng Anh ngữ của đại tá Ðỗ Kiểm thuộc bộ tư lệnh hải quân Sài Gòn lại ghi rằng
đại tá Ngạc điện thoại về xin lệnh khai hỏa của đề đốc tư lệnh hải quân. Lúc đó
tư lệnh đang trên đường bay ra Vùng I. Vì chuyện khẩn cấp nên đại tá Kiểm xin
lệnh của đô đốc Diệp quang Thủy tham mưu trưởng có
mặt tại bộ tư lệnh Sài Gòn. Nhân lúc họp bạn với anh em hải quân để viết lại
câu chuyện làm phim, tôi có dịp nói chuyện thêm chi tiết với đô đốc Thủy. Bây
giờ đại tá Hà văn Ngạc không còn nữa. Người viết chuyện tò mò muốn tìm hiểu
đành phải suy nghĩ rằng trước khi nổ súng ông đã gọi bộ tư lệnh hải quân để xin
phép trước. Qua đề đốc Diệp quang Thủy ông được lệnh Sài Gòn. Sau đó ông cẩn
thận xin lệnh Ðà Nẵng qua đề đốc Hồ văn Kỳ Thoại, và lệnh khai hỏa bắt đầu. Tuy
nhiên dù lệnh ra sao thì cũng chỉ qua giấy tờ và máy truyền tin.
Lệnh khai hỏa đích thực sau cùng
trên chiến hạm bằng khẩu lệnh là của cấp úy như ông trung úy Ðoàn viết Ất. Lúc
đó Trung úy Ất mới 24 tuổi, dân Nam Ðịnh. Ông là người tin vào những chuyện số
mệnh linh thiêng huyền bí. Dù rằng lệnh xuống theo hệ thống quân giai từ tổng
thống, tư lệnh hải quân, tư lệnh vùng, chỉ huy hạm đội, hạm trưởng rồi mới đến
tai ông. Nhưng theo tiếng gọi từ nơi xa thẳm thì cái lệnh khai hỏa đã bắt đầu
từ vua nhà Trần. Bẩy trăm năm về trước Ðức Trần Nhân Tông đã ra lệnh bắn quân
Tàu. Tư lệnh quân đội thời đó là Ðức Hưng Ðạo đại vương, Trần quốc Tuấn. Có
phải ngẫu nhiên hay không, vua quan nhà Trần thời đó cũng là người quê ở Nam
Ðịnh, chẳng khác gì ông tỵ nạn vô danh Ðoàn viết Ất ngày nay đang lưu lạc ở San
Jose. Mỗi sáng vào hãng sửa vài cái máy điện toán, bữa ăn trưa là lần cuối
trong ngày. Chiều chiều ghé vào nhà con trai kèm bài cho cháu nội. Ông pháo thủ
hải quân bỏ lại dàn đại bác từ hơn ba mươi năm trước ở cuối chân trời. Từ ngày
đó đến nay chẳng bao giờ còn nghe thấy lệnh khai hỏa của các cấp chỉ huy.
Giao
Chỉ
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Phản Hồi