Phạm Trần (Danlambao) - Người
lính cắm cờ Mặt trận giải phóng miền Nam trên nóc Dinh Độc Lập vào lúc
11 giờ 30 phút (30/04/1975) là Bùi Quang Thận, đại đội trưởng Đại đội 4,
Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn tăng thiết giáp 203, Quân đoàn 2 cũng là bộ đội
Cộng sản miền Bắc quê ở Thái Bình phải không? Còn chuyện bà xác
nhận “hai đoàn này là một” là chuyện ai không biết? Tuy hai khuôn mặt
nhưng là một “cơ thể” của đảng đẻ ra. Có khác chăng bà là “phái nữ” còn
ông Bộ trưởng Ngọai giao Nguyễn Duy Trinh là “phái nam”!...
*
Sự thật dối mãi rồi cũng có ngày lộ ra như trường hợp Phái đoàn của Chính phủ mang tên “Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam” do bà Nguyễn Thị Bình cầm đầu tại Hội nghị Paris cách nay 40 năm.
*
Sự thật dối mãi rồi cũng có ngày lộ ra như trường hợp Phái đoàn của Chính phủ mang tên “Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam” do bà Nguyễn Thị Bình cầm đầu tại Hội nghị Paris cách nay 40 năm.
“Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam”
đã được ký kết ngày 27/01/1973 bởi 4 bên ghi trong biên bản gồm: Hoa Kỳ,
Việt Nam Cộng Hòa (VNCH, Nam Việt Nam), Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa (miền
Bắc) và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
(CPCMLTCHMNVN), thành lập ngày 06/06/1969, tức Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam (MTGPMN).
Ngọn nguồn xâm lăng
Thực chất Hội nghị dài 4 năm 8 tháng 16 ngày, bắt đầu từ 13/05/1968 đến
27/01/1973, không kể các phiên họp kín giữa Mỹ và Bắc Việt, chỉ nên coi
đại diện cho 3 phe tham chiến gồm Mỹ, VNCH và phe Cộng sản Bắc và Nam
bởi lẽ tổ chức MTGPMN do đảng Lao Động Việt Nam, sau đổi thành đảng Cộng
sản Việt Nam thành lập và chỉ huy từ chính trị đến quân sự từ quyết
định của Đại hội tòan quốc lần thứ III ngày 10/09/1960.
Nghị quyết “về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới” được viết theo phương châm “xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam”, theo đó, chính quyền miền Bắc viết: “Để
bảo đảm cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam giành được toàn thắng,
đồng bào ta ở miền Nam cần ra sức xây dựng khối công nông binh liên hợp
và thực hiện một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống
Mỹ-Diệm lấy liên minh công nông làm cơ sở. Mặt trận này phải đoàn kết
các giai cấp và các tầng lớp yêu nước, dân tộc đa số, các dân tộc thiểu
số, các đảng phái yêu nước và các tôn giáo, và tất cả những người có
khuynh hướng chống Mỹ-Diệm. Mục tiêu phấn đấu của mặt trận này là hòa bình, độc lập dân tộc, tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, hòa bình thống nhất Tổ quốc. Công tác mặt trận phải
nhằm đoàn kết tất cả những lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ bất cứ
lực lượng nào có thể tranh thủ, trung lập những thế lực cần phải trung
lập, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân vào phong trào đấu tranh chung
chống Mỹ-Diệm nhằm giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc.”
Trước khi chủ trương thành lập một Mặt trận mang danh nghĩa của “nhân
dân miền Nam” để chống chính quyền VNCH thời Đệ I Cộng Hòa dưới quyền
lãnh đạo của Tổng thống Ngô Đình Diệm, đảng Lao động Việt Nam ở miền Bắc
thời ấy đã nói trắng ý đồ xâm lăng miền Nam từ năm 1959 khi đưa ra chủ
trương phá hoại miền Nam qua Nghị quyết Trung ương “lần thứ 15 (mở rộng) về tăng cường đoàn kết, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà”.
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) họp tại Hà Nội từ ngày 12 đến ngày 22-1-1959 viết:
“- Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế
quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
- Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống
đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài
Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên
hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền
tự do dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân, giữ vững hoà bình, thực
hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp
phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới".
Những người Cộng sản miền Bắc cũng không giấu giếm khi họ nói thêm
rằng: “Hội nghị Trung ương lần thứ 15 nhận định rằng hiện nay, cách mạng
Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính chất khác nhau, nhưng quan
hệ hữu cơ với nhau, song song tiến hành, ảnh hưởng sâu sắc lẫn nhau,
trợ lực mạnh mẽ cho nhau, nhằm phương hướng chung là giữ vững hoà bình,
thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước
Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội.” - (Tài liệu của đảng CSVN)
Cộng sản Miền Nam
Bà Nguyễn Thị Bình - 40 năm trước |
Cùng được kết nạp vào đảng năm 1948 còn có Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ
tịch đầu tiên của Mặt trận Giải phóng miền Nam khi thành lập ngày
10/12/1960 và Kỹ sư Huỳnh Tấn Phát, Phó Chủ tịch, Thủ tướng của Chính
phủ CMLTCHMNVN đã gia nhập đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1947.
Theo tiểu sử công khai thì Bà Bình, tên thật là Nguyễn Châu Sa hay Nguyễn Thị Châu Sa, sinh ngày 26 tháng 5 năm 1927 tại tỉnh Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Tuy nhiên, nguyên quán của thân phụ bà là ông Nguyễn Đồng Hợi, lại ở Điện Bàn, Quảng Nam. Thân mẫu bà là bà Phan Thị Châu Lan (tục gọi là cô Mè, 1904-1944), là người con gái thứ hai của nhà chí sĩ Phan Chu Trinh.
Bà Bình tham gia hoạt động chống Pháp từ thời còn niên thiếu. Năm 1954,
bà ra tù và tham gia phong trào hòa bình đòi thi hành Hiệp định Genève.
Năm 1955, bà được đảng điều ra Bắc tập kết và được đào tạo thêm theo
chương trình bồi dưỡng cán bộ đặc biệt.
Năm 1962, bà được điều trở lại miền Nam với cái tên mới là Nguyễn Thị
Bình, giữ chức vụ Ủy viên Trung ương Mặt trận Giải phóng, hoạt động
trong tổ đối ngoại, kiêm Phó tổng thư ký Hội Phụ nữ Giải phóng. Cuối năm
1968, bà được cử làm Trưởng đoàn đàm phán của Mặt trận Giải phóng sang
Paris dự Hội nghị Paris về Việt Nam, đến đầu tháng 1 năm 1969, ông Trần Bửu Kiếm giữ chức vụ trưởng đoàn, còn bà được rút về nước để chuẩn bị cho việc thành lập Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Sau đó đảng Cộng sản cử Bà làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao cho Chính phủ
này để đảm nhận lại chức vụ Trưởng đoàn đàm phán của phe MTGPMN tại cuộc
hòa đàm Ba Lê.
Những mặt trái
Trong cuộc phỏng vấn của báo điện tử đảng Cộng sản Việt Nam phổ biến ngày 23/01/2013, bà Bình nói: “Trong
4 đoàn, đoàn Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đại diện cho
cuộc chiến đấu trực tiếp với Mỹ. Do đó theo tôi, chú ý của thế giới tập
trung vào đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam; và hơn nữa, như chúng ta biết,
hai đoàn này là một, mục tiêu là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Vì vậy,
tất cả những đề nghị giải pháp đưa ra đều do Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà ủng hộ. Vì thế, vị thế của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam là rất quan trọng trong đàm phán Hiệp định Paris. Bên
cạnh đó, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam còn có
vị trí quan trọng, bởi là người trực tiếp chiến đấu, với đường lối độc lập hòa bình trung lập, nhấn mạnh đến đường lối hòa bình, mềm dẻo đối ngoại trong đàm phán.”
Bà Bình đã “phóng đại tô mầu” văng miệng cho vai trò “chiếc áo rộng hơn người mặc” của MTGPMN vì bà không mất tiền mua.
Tại sao?
Bà Nguyễn Thị Bình - những năm sau |
Chắc Bà Bình quên mất hình ảnh chiếc xe tăng đi đầu húc đổ cổng dinh Độc
Lập ngày 30/04/1975 ở Sài Gòn tuy có cắm cờ của “giải phóng” nhưng
những lính trên xe là của miền Bắc đấy chứ?
Rồi người lính cắm cờ MTGPMN trên nóc Dinh Độc Lập vào lúc 11 giờ 30
phút (30/04/1975), Bùi Quang Thận, đại đội trưởng Đại đội 4, Tiểu đoàn
1, Lữ đoàn tăng thiết giáp 203, Quân đoàn 2 cũng là bộ đội Cộng sản miền
Bắc quê ở Thái Bình phải không?
Còn chuyện bà xác nhận “hai đoàn này là một” là chuyện ai không
biết? Tuy hai khuôn mặt nhưng là một “cơ thể” của đảng đẻ ra. Có khác
chăng bà là “phái nữ” còn ông Bộ trưởng Ngọai giao Nguyễn Duy Trinh là
“phái nam”!
Thế rồi bà Bình còn hô hoán lên rằng: “Nếu không có chiến thắng Mậu
Thân 1968, không có những ngày chiến đấu ác liệt bảo vệ thành cổ Quảng
Trị, không có chiến thắng Điện Biên Phủ trên không, không có sự hỗ trợ
chi viện của miền Bắc thì không có Hiệp định Paris về chấm dứt chiến
tranh và lập lại hòa bình tại Việt Nam. Và đương nhiên, nếu không có
Hiệp định Paris năm 1973 thì sẽ không có Đại thắng mùa Xuân năm 1975.”
Tòan là những chuyện “bới đống tro tàn tìm máu đổ” và nhận công “hão”. Bà Bình nói “chiến thắng Mậu Thân 1968”
là bà đã nhục mạ lên những xác người Việt Nam vô tội của miền Nam bị
lính Cộng sản hai miền Nam-Bắc sát hại không gớm tay trong cuộc thảm sát
ở Huế và ở khắp thành thị miền Nam của năm ấy mà bà không nhớ sao?
Còn bao nhiêu xác người dân, trong số có không biết bao nhiêu con trẻ,
phụ nữ và các cụ gìa đã bị lính Cộng sản rượt bắn tiêu diệt không thương
tiếc trên đường chạy trốn để không bị bắt lại ở đường số 1 nối liền
Quảng Trị với Thừa Thiên?
Còn chuyện bà nhớ ơn miền Bắc đã “hỗ trợ chi viện” cho miền Nam “kháng chiến chống Mỹ” và “chống Ngụy” là đầu óc bà bắt buộc phải “có vấn đề” rồi!
Nếu miền Bắc của bà tử tế như họ nói từ xưa đến nay thì làm gì có những
câu chuyện “lính Việt Cộng miền Nam” đã “chửi thề nguyền rủa” các đồng
chí miền Bắc cướp công cách mạng của đồng bào miền Nam sau cuộc chiến?
Quân “giải phóng” làm gì có xe tăng, đai pháo và hỏa tiễn. Chúng là của
Trung Cộng và khối Liên Sô trao cho lính miền Bắc Cộng sản để đem vào
Nam giết hại dân lành và phá họai xóm làng đấy thôi?
Chẳng nhẽ bà đã quên câu chuyện “Câu lạc bộ truyền thống kháng chiến” của những "Lão thành Cách mạng" và Tướng tá người miền Nam bị “khóa miệng” từ tháng 3 năm 1989 bởi Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, và một số người bị bắt giam hoặc bị qủan thúc như các ông Tạ Bá Tòng, Hồ Văn Hiếu, Ðỗ Trung Hiếu, Lê Ðình Mạnh?
Những người “kháng chiến gian khổ gấp trăm lần hơn” bà Bình không “có
công” với cách mạng như bà hay sao mà họ bị trù dập đau đớn như thế, hay
chỉ vì họ đã bất đồng chính kiến và bất mãn trước chủ trương kỳ thị và
những chính sách làm nghèo đói dân miền Nam của đảng miền Bắc sau ngày
30/4/1975?
Chắc hẳn bà cũng chưa quên những lời oán trách bị kỳ thị và bị “vắt
chanh bỏ vỏ” của bà Bác sỹ Dương Qùynh Hoa, Bộ trưởng Y tế của Chính phủ
ma CMLTCHMNVN sau ngày “giải phóng” đấy chứ?
Hay là bà Bình cũng quên nốt lời lên án các chỉ huy quân sự miền Bắc đã
“chủ ý” đẩy “lính Việt Cộng” miền Nam vào chỗ thiêu thân trong trận tấn
công Mậu Thân?
Những người Cộng sản miền Nam được hưởng ân sủng như bà không nhiều.
Nhưng bà cũng không nên quên rằng, dù bà cố nói sai đi thì lịch sử vẫn
còn ghi đậm nét những phá họai đất đai và con người miền Nam của đảng
Cộng sản Việt Nam trong hai cuộc chiến huynh đệ tương tàn.
Bởi lẽ nếu 30,000 quân lính miền Bắc không lén lút ở lại trong Nam sau
Hiệp định Geneve 1954 để nuôi dưỡng chiến tranh xâm lược và nếu ngót
200,000 bộ đội chính quy miền Bắc không được “ở nguyên vị trí” trong Nam
do nhượng bộ vì quyền lợi thiển cận phải tái đắc cử của Tổng thống Hoa
Kỳ Richard Nixon trước khi ký Hiệp định Paris năm 1973, nhờ đó mà Bắc
Việt có thể dấy lên cuộc chiến mới phá họai hòa bình để giết hại đồng
bào thì làm gì có chuyện được gọi là “Đại thắng mùa xuân 1975”, hay bị
rơi vào hòan cảnh “một triệu người vui thì cũng có một triệu người buồn” như Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói?
Thế rồi người dân cũng chưa thấy bà Bình có lời bênh vực nào cho những
người biểu tình chống Trung Cộng đang xâm chiến biển đảo của Việt Nam ở
Biển Đông khi họ bị công an đàn áp dã man từ Sài Gòn ra Hà Nội?
Cũng chưa nghe bà than phiền gì về chuyện hàng chục nghìn người dân miền
Nam đã bỏ xác trên Biển Đông khi vượt biển tìm tự do sau ngày “các đồng
chí” của bà chiếm Sài Gòn?
Bà cũng im hơi lặng tiếng sau chiến dịch đảng cướp sạch tài sản của giới
thương gia Sài Gòn và phá họai nền kinh tế phồn thịnh của miền Nam
trong chiến dịch diệt tư sản năm 1977 khiến cả nước phải mất hàng chục
năm mới ngóc đầu lên được!
Những tệ nạn xã hội, văn hóa suy đồi, luân thường đạo lý đảo ngược,
truyền thống dân tộc băng họai trong xã hội ngày nay và nạn tham nhũng
đang đe dọa sự sống còn của cả nước có do Mỹ-Ngụy để lại không hay bởi
“các đồng chí Cộng sản của bà” gây ra?
Có phải đó là những “thành qủa vĩ đại” của cách mạng không hay là những thảm họa của cái gọi là “Đại thắng mùa Xuân năm 1975”?
Rồi bà Bình hãy ngẫm lại xem chủ trương “hòa hợp, hòa giải dân tộc” do
bà rêu rao ở Hội đàm Paris 40 năm trước đã thực hành ra sao ở trong Nam
kể từ 30/04/1975, hay lòng người Nam-Bắc từ đó đến nay đã chia rẽ và hận
thù nhau hơn bao giờ hết?
Ấy là chưa kể gần như tòan vẹn trên 3 triệu cây số vuông Biển Đông đã nằm trong tay kiểm soát của Trung Cộng.
Rồi bà phải trả lời như thế nào với một số Trí thức Sài Gòn từng là
người của MTGPMN hay cảm tình viên trong thời chiến đã bị trù dập, bị
khống chế và bị đe dọa, khủng bố trong mấy năm gần đây chỉ vì muốn biểu
tình chống xâm lăng của Trung Cộng ở Biển Đông?
Chẳng lẽ bà không biết đến những người như Giáo sư Tương Lai, cựu Dân
biều VNCH Hồ Ngọc Nhuận, Bác sỹ Hùynh Tấn Mẫm, Luật sư Lê Hiếu Đằng
v.v…?
Tại sao họ đã quay lưng lại với đảng và nhà nước của bà thì bà phải hiểu chứ?
Những sự thật phũ phàng này không ghi trong “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam” nhưng đang nhảy múa trước mắt mọi người.
Chẳng nhẽ bà Bình không thấy hay Bà biết mà không dám nói?
(01/013)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Phản Hồi