Douglas Pike
*****
http://www.trinhanmedia.com/
“Viet Cong Strategy of Terror”
Ngô Xuân Hùng chuyển ngữ
15-08-2002
Thương nhớ đến 7,600 đồng bào Huế đã bị cộng sản Việt Nam sát hại
***Ở
Hòa Đàm Paris, Cộng Sản Việt Nam đã công bố việc thảm sát này không
phải do bàn tay của đảng Cộng Sản, mà chính là hành động của những cán
bộ ở Huế bất mãn với chế độ.
***Tưởng
cũng nên nhắc lại: vào ngày 26 tháng Tư năm 1968, Đài Giải Phóng Hà Nội
đã chê trách việc chính phủ VNCH cố tìm xác của các nạn nhân, đài đã
phát thanh rằng những người bị giết hại chỉ là “những tên tay sai đã
nhúng tay vào máu của nhân dân yêu nước ở Huế và họ đã bị Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa giết hại vào tháng Ba tháng Tư.”.
***Những
lời tuyên truyền này sau đó đã được thay thế bởi một lý do khác là
“thảm sát ở Huế chỉ là những vụ thanh toán tranh chấp giữa các đảng phái
ở Huế mà thôi.”???
DẤU BINH LỬA NƯỚC NON CÒN ĐÓ
Huế
là một thành phố thảm thương nhất trên thế giới, không phải chỉ vì một
thảm cảnh đã xảy ra ở đó vào tháng Hai năm 1968, cho dù sự giết hại đó
có đi vượt sức tưởng tượng của con người! Mà Huế còn là một chứng tích
không thể chối cải được cho tất cả chúng ta, người dân Việt với bốn ngàn
năm văn hiến, qua bao năm đã không để ý đến những thay đổi trong xã hội
làm cho con người
bị mê muội và đắm chìm trong lỗi lầm mới của thế kỹ thứ hai mươi, quên
mất đi đạo làm người.
Những
thảm họa xảy ra ở Huế làm cho tất cả mọi người chúng ta phải bồi hồi
suy tư! Thảm nạn Huế phải được tạc vào bia đá, khắc vào tâm khảm, để đời
sau sẽ không quên, cùng chung với những dữ kiện lịch sử khác, của những
cuộc tàn sát bạo tàn giữa con người với nhau. Huế là một dẫn chứng điển
hình cho sự mù quáng của loài người khi họ đi theo chủ nghĩa vô sản vô
thần của cộng sản.
Chuyện
gì đã đến với Huế có thể được tóm tắt lại qua vài con số thống kê như
sau: Phía cộng sản gồm có 12,000 lính chính quy Bắc Việt (BV) bắt đầu
tấn công thành phố Huế đêm ba mươi Tết, nhằm
ngày Ba Mươi Tháng Một dương lịch, 1968. Đoàn cộng quân đã tấn công và
chiếm giử Huế trong suốt 26 ngày, sau đó bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
(QLVNCH) và đồng minh đánh bật ra khỏi Huế. Sau một tháng, 5,800 thường
dân Huế bị giết hại hoặc mất tích.
Đây
là những thống kê quan trọng để giải đáp những thắc mắc chúng ta có về
Huế, vì những dữ kiện này đã ghi vào lịch sử, cho dù báo chí trên thế
giới chỉ ghi
nhận rất sơ sài các thống kê đó. Dù con số có lên cao đến bao nhiêu đi
nữa, lương tâm của nhân loại vẫn không bị ảnh hưởng gì cho lắm! Đã không
có những cuộc biểu tình trước các tòa Đại Sứ Việt Cộng ở các quốc gia
khác. Nói một cách mỉa mai hơn, thế giới bên ngoài đã không biết chuyện
gì đã xảy ra ở Huế, hoặc nếu biết, họ cũng chẳng bận tâm đến làm gì.
TRẬN CHIẾN
Trận
tấn
công thành phố Huế là một phần quan trọng trong chiến dịch tổng tấn
công Đông Xuân năm 1967-1968 của cộng sản Việt Nam. Chiến dịch được chia
làm ba giai đoạn chính như sau:
Giai đoạn 1 –
Bắt đầu từ tháng 12 năm 1967 với những cuộc “tấn công chọn lọc” nhắm
vào các căn cứ và yếu điểm quan trọng của QLVNCH và đồng minh bằng những
sư đoàn chính quy Bắc Việt. Các trận đánh ở Lộc Ninh tỉnh Bình Long,
Dak To ở Kontum, và Cồn Tiên ở tỉnh Quảng Trị, cả ba trận xảy ra trong
các vùng đầy núi đồi Việt Nam gần biên giơi Cam Bốt và Lào, đều là những
trận đánh then chốt thuộc
Giai đoạn 1 của chiến dịch Đông Xuân.
Giai đoạn 2 –
Xảy ra trong tháng Giêng, tháng Hai, và tháng Ba năm 1968, nằm trong
“chiến
thuật tổng tấn công”, với nhiều trận đánh dùng những đơn vị nhỏ lưu
động cùng tấn công một lúc tại nhiều nơi. Giai đoạn 2 bao gồm một diện
tích lớn và dùng chiến thuật du kích. Trong khi những cuộc tấn công
trong giai đoạn trước, VC dùng những sư đoàn chính quy BV. Trong giai
đoạn này, đa số các cuộc tấn công đều dùng những nhóm du kích địa phương
của Mật Trận Giải Phóng Miền Nam. Cao điểm của giai đoạn 2 xảy ra khi
70,000 Việt Cộng tấn công vào 32 thành phố vào ngày Mồng Một Tết, năm
1968.
Giai đoạn 3 –
Diễn ra trong tháng Tư, tháng Năm, và tháng Sáu năm 1968, với toàn
bộ lực lượng gồm các sư đoàn chính quy BV và các lực lượng du kích
MTGPMN, tập trung vào một trận đánh lớn. Những tài liệu tịch thu được từ
mặt trận đã có nói về chiến thuật “đợt sóng thứ Hai” này. Có thể là Khe
Sanh, một căn cứ của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ nằm gần Vĩ Tuyến 17 (để
yễm trợ và cũng là căn cứ xuất quân của các toán Biệt Kích Nha Kỹ
Thuật). Hoặc có thể là Cố Đô Huế. “Đợt sóng thứ Hai” đã không xảy ra vì
các chiến dịch trước đó (Giai đoạn 1 và Giai đoạn 2) đã không đạt được
kết quả mong muốn. Tuy nhiên, từ khi thành phố Huế bị chiếm, và sau cuộc
đánh để giải tỏa căn cứ Khe Sanh mùa Hè 1968, cuộc chiến đã đi đến điểm
cao độ kể từ đó.
Về
phía đồng minh Hoa Kỳ, trong ba tháng này, trung bình khoảng 500 binh
sĩ tử thương hàng tuần, QLVNCH (ARVN) hơn gấp đôi con số này - gần 1,000
nhân mạng. Và bên Việt Cộng, con số tử thương lên đến tám lần của phía
Hoa Kỳ - trên 4,000 “sinh Bắc tử Nam”! Trong chiến dịch Đông Xuân, Việt
Cộng bắt đầu với khoảng 195,000 quân chính quy và du kích, sau 9 tháng
tổng tấn công, cộng sản Bắc Việt đã mất đi 85,000 quân, tử thương hoặc
bị tàn phế.
Chiến
dịch Đông Xuân được hoạch định
và mở ra nhằm mục đích bẻ gãy sức mạnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
và để đẩy lùi các bộ phận của chính phủ VNCH, gồm các cơ quan hành
chính, và đồng minh phải rút vào thành phố để phòng thủ. Đúng ra, cuộc
tấn công thành phố Huế thuộc vào Giai đoạn 1 của chiến dịch Đông Xuân
hơn là Giai đoạn 2 vì Việt Cộng xữ dụng các sư đoàn Bắc Việt, sư đoàn 5
324-B cộng vơi các trung đoàn chính quy và thành phần du kích với khoảng
150 cán bộ cộng sản nằm vùng.
Tóm lượt lại, trận đánh ở Huế gồm có ba giai đoạn chính:
HUẾ: GIAI ĐOẠN MỘT
Phần
tấn công khởi đầu của sư đoàn chính quy BV với Trung Đoàn 800 và Trung
Đoàn 802, đủ hỏa và nhân lực để tràn ngập vào thành phố Huế. Đến sáng
ngày hôm sau, Việt Cộng đã chiếm được đa số các cơ sở trong thành phố
Huế, ngoại trừ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh QLVNCH và các căn cứ của
đồng minh. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ tiếp viện thêm quân để
yễm trợ cho hai tuyến phòng thủ quan trọng trong thành phố Huế. Việt
cộng gia tăng thêm Trung Đoàn 804 để cắt đứt đường yễm trợ này. Tuy
nhiên QLVNCH tấn công quá mạnh nên đã chọc thủng vòng đai bao vây của VC
và sau đó, hai căn cứ quân sự của QLVNCH và Hoa Kỳ đó không còn bị đe
dọa trầm trọng nữa.
Kể
từ đó, chiến trường trở thành cuộc bao vây và phòng thủ giữa hai phía.
Việt Cộng tấn chiếm và cố thủ ở phía Tây Thành Nội Huế. QLVNCH và Đồng
Minh tái chiếm và phòng thủ ba hướng còn lại của Thành Nội và các làng
dọc theo sông Hương, với quyết tâm đánh đuổi VC ra khỏi Thành Nội bằng
pháo binh và dùng máy bay dội bom. Nhưng Thành Nội được xây
rất kiên cố, và trong những ngày kế tiếp, QLVNCH thấy rõ là VC đã nhận
chỉ thị phải tử thủ ở Thành Nội, bất cứ với giá nào cũng không được
triệt thoái. QLVNCH chỉ còn một cách duy nhất là lấy lại thành phố bằng
từng con đường, từng khu phố, một cách chiến đấu rất khó khăn, gian khổ
và hao tổn nhân mạng.
Qua
tuần thứ Ba của tháng Hai, vòng đai bao vây Thành Nội đã được củng cố,
và Thủy Quân Lục Chiến QLVNCH cùng Đồng Minh bắt đầu xiết chặc lại và
khởi sự tái chiếm từng thước đất trong Thành Nội. Sáng ngày 24 tháng
Hai, Sư Đoàn 1 Bộ Binh QLVNCH giật lá cờ VC đã treo 24
ngày xuống và cờ VNCH một lần nữa ngạo nghễ tung bay trên thành phố
Huế. Trận tái chiếm Cổ Thành tuy đã thành công, nhưng rải rác trong
thành phố vẫn còn những cuộc đụng độ nhỏ giữa VC trên đường rút lui với
QLVNCH truy đuổi.
KẺ HÀNH HƯƠNG QUA ÐẤY CHẠNH THƯƠNG
TÌM THÂY
Giữa
những hỗn loạn còn nghi ngút khói sau cuộc chiến, việc cấp cứu đầu tiên
cho đồng bào Huế là cứu đói, ngăn ngừa bệnh dịch, và trị liệu cấp thời
cho các nạn nhân. Tiếp đó là xây dựng lại những nhà thương, trường học,
nhà cửa bị hư hại vì súng và bom đạn. Sau đó mới đến việc kiểm điểm
những người bị mất tích hoặc đã thiệt mạng. Sau một tháng, vẫn chưa có
một thống kê nào chính thức. Tuy nhiên, Tòa Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên
kiểm kê được gần 1,900 người đang được điều trị trong các nhà thương và
ước lượng khoảng 5,800 người vẫn còn bị mất tích.
Nhóm mộ thứ nhất:
những nạn nhân của cộng sản được tìm thấy ở trong sân trường ở Gia Hội,
ngày 26 tháng Hai. Tổng số xác chết của nạn nhân bị chôn ở trường học
Gia Hội tìm thấy lên đến 170 người.
Trong
những tháng kế tiếp, lần lượt từng mồ chôn được khám phá thêm, gồm có
18 ngôi mộ tập thể, nơi chôn nhiều nhất là chùa Quảng Tự (67 nạn nhân),
Bải Dâu (77), Chợ Thông (ước lượng khoảng 100), Thiên Hàm (khoảng 200),
và Đông Gia (khoảng 100). Tổng cộng trên 1,200 xác được tìm thấy từ
những ngôi mồ tập thể chôn gấp rút, đã không dấu kỹ.
Hơn
một nửa trong số những nạn nhân vẫn còn để lai những
dấu hiệu của cái chết thảm khốc: hai tay trói chặc sau lưng, khăn nhét
đầy vào cuống họng, nằm cong queo với không thương tích trên người. Đó
là dấu hiệu họ đã bị chôn sống. 600 nạn nhân còn lại có những vết
thương, nhưng nhà giảo nghiệm không thể nói được là họ đã bị xử bắn hay
bị chết vì lạc đạn.
Những ngôi mộ tập thể thuộc nhóm thứ nhì được
tìm thấy trong bảy tháng đầu tiên của năm 1969 ở quận Phú Thứ (Gò Cát –
Sand Dune), Lệ Xá Tây, quận Hương Thủy – huyện Xuân Hòa, Vân Đường vào
cuối tháng Ba và tháng Tư. Nhiều
ngôi mộ khác cũng đã được tìm thấy tại làng Vĩnh Lộc trong tháng Năm và
ở quận Nam Hòa trong tháng bảy. Những ngôi mộ lớn nhất tìm thấy trong
đợt hai nằm ở Gò Cát tại ba địa điểm Vĩnh Lưu, Lê Xã Đông và Xuân Lộ,
nằm giấu trong những gò cát nhấp nhô với cỏ mọc cao gần bãi biển. Ngăn
chia bởi những cồn muối, xa với làng xóm, những gò cát này là địa điểm
lý tưởng để chôn dấu. Trên 800 xác đã được tìm thấy ở đây.
(ghi
chú thêm của Ngô Xuân Hùng: trong số những nạn nhân này có hai vị Linh
Mục – Cha Bửu Đồng và Cha Michael Bang, cùng với hai Sư Huynh Dòng
Lasan).
Ở
Gò Cát, tất cả các nạn nhân đều bị trói gô lại thành từng nhóm khoảng
10 đến 20 người, xếp hàng đứng trước các rãnh mới được đào bởi chính các
nạn nhân, và bị xử bắn bằng súng đại liên. Một trong những di vật quý
của dân làng gò cát Phú Thứ là vỏ đạn đại liên của Nga Sô tìm thấy được
trong những ngôi mộ này. Thường thì những nạn nhân ở đây bị chôn chung
một mộ, chôn đến ba hay bốn lớp, nên nhận diện các nạn nhân rất khó
khăn.
Nhóm mộ thứ ba tìm
thấy ở suối Đá Mài (Da Mai Creek find), cũng được gọi là Phủ Cam tử lộ,
tìm ra ngày 19 tháng 9, năm 1969. Ba VC hồi chánh viên đã báo cho toán
quân báo của Tiểu Đoàn
101 Nhảy Dù rằng, họ đã chứng kiến cuộc thảm sát của vài trăm nạn nhân
tại Đá Mài vào tháng Hai năm 1968, cách Huế khoảng mười dặm. Vùng suối
Đá Mài rất hoang dã, không người ở, và gần như không có lối ra vào bằng
đường bộ.
Sau khi gom lại những bằng chứng, các giảm nghiệm viên đã phân tách diễn biến xảy ra tại Đá Mài như sau:
Ngày
Mồng Năm Tết ở làng Phủ Cam, nơi gần ba phần tư của 40 ngàn người Công
Giáo Huế
cư ngụ, một số rất đông ngươi đã tránh nạn trong Thánh Đường Phủ Cam,
một cách tránh nạn rất thông thường ở Việt Nam. Trong số này, cũng có
một số người không phải là Công Giáo. Một cán bộ chính trị cộng sản đến
nhà thờ và đã ra lệnh cho 400 người, bằng cách gọi tên hoặc nhận diện
qua cách ăn mặc (giàu có hoặc nhìn như thương gia). Tên cán bộ nói họ sẽ
được đi đến “vùng giải phóng” trong ba ngày mà thôi để được cải tạo,
sau đó họ sẽ được thả về.
Những
người này đi bộ chín cây số về hướng Nam đến một ngôi chùa nơi cộng sản
đã dựng sẵn một bộ chỉ
huy hành quân. Hai mươi người bị kêu ra khỏi nhóm, đứng sắp hàng một,
lần lượt bị truy tố vì những tội đã hợp tác với chính phủ VNCH, sau đó
bị bắn rồi bị chôn trong sân chùa. Những người còn lại bị buộc phải lội
băng qua phía bên kia sông, và được giao lại cho một đại đội du kích,
với biên bản và danh sách của những người bị bắt. Có thể là tên cán bộ
chính trị có ý là những người bị bắt này sẽ “được” cải tạo rồi sẽ thả
cho họ về, nhưng sau khi bàn giao, số phần của những nạn nhân này đã ra
khỏi tầm tay của tên cán bộ chính trị.
Những
ngày kế tiếp, bao
nhiêu ngày không ai biết, những người bị bắt và người quản thúc họ đi
lang thang lẩn trốn cuộc truy lùng của QLVNCH qua những làng nhỏ. Cuối
cùng, cán bộ du kích cao cấp quyết định thủ tiêu nhân chứng: Họ bị dắt
đi sáu cây số qua những đường núi khó đi và hẻo lánh nhất, đến suối Đá
Mài. Tất cả đều bị bắn hoặc bị đập vỡ sọ, xác họ để nằm phơi trên suối
nước. Tiểu Đoàn 101 Nhảy Dù QLVNCH ghi nhận rằng nơi hành quyết không
thể vào được bằng xe vì đường đi không có hoặc không thể đi lọt được,
chỉ vào được bằng đường bộ. Cây cối nơi này mọc rất cao, lá dầy và mọc
theo lối “hai tầng”, tầng một gồm những bụi tre và cây thấp gần đất,
tầng hai gồm những cây cổ thụ mọc rất cao, những nhánh lớn xoè ra như
lọng dù
che khuất đi những gì ở dưới. Bên dưới hai tầng lá này, ánh sánh mặt
trời không chiếu sáng được. Công binh QLVNCH đã bỏ hai ngày để dùng mìn
phá ngã các cây cổ thụ và tạo ra một khoảng trống lớn đủ cho máy bay
trực thăng đáp xuống để đem các di hài nạn nhân về Huế. Suối Đá Mài thật
đúng là nơi để hạ sát mà không cần phải chôn giấu xác nạn nhân.
Ở
suối Đá Mài, cách bờ khoảng một trăm thước, người ta tìm thấy hàng trăm
chiếc sọ người, hàng trăm mẫu xương vụn nằm chung lại một chỗ. Những
xác này đã không được chôn, nằm lộ liễu (theo truyền thuyết VN, người
chết nếu không được chôn, hồn họ phải lang thang mãi và sẽ không được
đầu thai qua kiếp khác). Và sau hai mươi tháng, dòng suối đã rửa sạch
trắng những bộ xương này.
Nhà
chức trách VNCH sau đó đã phổ biến danh sách nạn nhân bị cộng sản giết
tại suối Đá Mài, 428 người đã được xác nhận. Việt cộng đã dùng lý do
tiêu diệt các phần tử phản cách mạng. 428 nạn nhân được phân ra như sau:
25 phần trăm là quân đội VCNH – hai sĩ quan, một số hạ sĩ quan và binh
sĩ, 25 phần trăm là học sinh và sinh viên, 50 phần trăm là công chức và
viên chức quận hạt và thường dân.
Nhóm mồ tập thể thứ tư –
Phú Thứ gần biển muối, tìm ra vào tháng mười một năm 1969, gần làng
đánh cá Lương Viện, mười lăm cây số về phía Đông của thành phố Huế, một
nơi cũng hoang dã như suối Đá Mài. Quân đội VNCH trong tháng đó đã có
chiến dịch truy lùng những cán bộ cộng sản nằm vùng. Làng Lương Viện,
dân số 700, sống gần với quân đội VNCH gần hai mươi tháng trời, đã có đủ
can đảm để nói lên sự thật mà họ đã giữ kín trước đó, rồi sau đó, đã
dẫn QLVNCH đến những ngôi mộ chôn tập thể. Dựa trên những lơi tường
thuật của dân làng Lương Viện, nhà chức trách
đã ước lượng số nạn nhân tại Phú Thứ từ 300 cho đến khoảng 1,000 người.
Tuy
nhiên, việc kiểm kê tổng số nạn nhân vẫn chưa được đầy đủ. Nếu tổng kê
của chức trách địa phương Huế gần đúng, trên 2,000 người vẫn còn mất
tích.
Sau cuộc chiến, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ước lượng tổng số nạn nhân ở Huế vào khoảng 7,600, như sau:
Bị thương và tàn tật vì bom đạn:
|
1,900
|
Thường dân bị chết vì bom đạn:
|
844
|
Nhóm mồ tập thể thứ nhất ngay sau cuộc chiến:
|
1,173
|
Nhóm mồ tập thể thứ nhì, luôn cả Gò Cát, tháng 3-7, năm 1969:
|
809
|
Nhóm mồ tập thể thứ ba, suối Đá Mài (quận Nam Hòa, tháng 9, 1969:
|
428
|
Nhóm mồ tập thể thứ tư, biễn muối ở Phú Thứ, tháng 11, 1969:
|
300
|
Ước lượng những mồ tìm rải rác chung quanh thành phố Huế:
|
200
|
Số người vẫn còn mất tích:
|
1,946
|
Tổng số nạn nhân của cộng sản ở Huế:
|
7,600
|
Chú thích của tác giả - tài liệu trên đây lấy từ:
[1] SEATO: South East Asia Organization.
[2] PAVN: People's Army of Vietnam, soldiers of North Vietnam Army serving in the South,
number currently 105,000.
[3] PLAF: People's Liberation Armed Force, Formerly called the National Liberation Front Army.
CỘNG SẢN CHẠY TỘI
Những
cuộc thảm sát ở Huế đã vượt quá những việc tàn ác CSVN đã ra tay trước
đó ở miền Nam Việt Nam. Điều khác biệt là ở số nạn nhân
lần này, chứ không phải ở mức độ tàn ác của việc họ làm. Đặc điểm của
những vụ tàn sát ở Huế, sau khi chúng ta nghiên cứu những tài liệu tìm
thấy, cho ta nhìn rõ được mức độ tàn ác của CSVN tại Huế, đã vượt xa
những việc tàn ác ở những nơi khác trên miền Nam Việt Nam, cho dù có
thường xuyên hoặc tàn bạo đến mức nào đi nữa.
Vụ
thảm sát ở Huế không phải là một việc làm để nâng cao tinh thần tranh
đấu – cách đánh cấp tốc vào thẳng yếu điểm của phía bên kia để chứng
minh sức mạnh của phe mình, mà lại khác hơn ở chổ xuống tay sát hại dân
lành trong vùng do du
kích của CSVN kiểm soát.
Không
phải một chiến dịch đe dọa để quảng bá lý thuyết cộng sản. Không nhắm
vào mục đích lay chuyển lý tưởng của phe đối nghịch, vì đa số những nạn
nhân đều bị giết một cách âm thầm. Và cũng không phải để thủ tiêu những
phần tử đối nghịch theo danh sách đã được soạn trước. Huế đã là ngoại lệ
so với những chiến dịch của cộng sản nhằm lay chuyển hoặc đánh dò đường
phản ứng của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa. Nếu nghiên cứu cẩn thận hơn,
đây đó cũng có vài lý do, dữ kiện để giải thích một góc cạnh nào đó,
nhưng tất cả vẫn
không đủ để giải thích được những hình thức giết hại và sự lan rộng của
những cuộc thảm sát ở Huế.
Điều
mà tác giả muốn nói ở đây là một giả thuyết, để giải thích những vấn đề
liên quan đến những vụ thảm sát ở Huế, dưới hình thức sát nhân rất đơn
giản và không có sự chọn lựa.
Trước
khi vào vấn đề, chúng ta nên để ý đến “ba sự thật” quan trọng. Có hai
điều chính yếu mà khách du lịch
nào đến Huế để tìm sự thật về thảm sát Tết Mậu Thân cũng đều tự hỏi:
cái gì đã xảy ra? Và quan trọng hơn nữa là tại sao nó đã xảy ra? Cả hai
câu hỏi này rất khó nhận thấy qua sự suy đoán đơn giản và thường đi
ngược lại những lý luận của con người. Sau khi đã nói chuyện, thẩm vấn
một số đông những cựu tỉnh trưởng, quận trưởng, cảnh sát địa phương lúc
bấy giờ, cũng như những người đồng minh Hoa Kỳ có tham dự trận đánh tái
chiếm Cổ Thành Nội, những nhân chứng, tù nhân đã được thả, những người
cộng sản đã hồi chánh, và một số ít người quá may mắn, tuy đã bị bắt
nhưng đã thoát chết, “ba sự thật” quan trọng này vẫn trổi lên trên hết:
SỰ THẬT THỨ NHẤT: Và
có thể sự thật quan trọng nhất, là tuy không thấy rõ bên ngoài, nhưng
hầu như tất cả những vụ hành quyết đều xảy ra không phải vì lý do nóng
nảy, bực tức, hay khủng hoảng khi cộng sản phải cuối cùng rút lui ra
khỏi Huế. Nhiều lần, những lý do vừa đề cập đến đã được nêu lên, nhưng
những lý do nầy quá yếu đi, không đủ để biện minh cho sự việc. Trái lại,
nếu chúng ta xét lại từ đầu những vụ hành quyết đầu tiên khi Việt Cộng
vừa chiếm được thành phố Huế, mình sẽ thấy rằng: gần như tất cả những vụ
hành quyết này đều là kết quả của một quyết định và sự toan tính của
đảng cộng sản Việt Nam.
Nói đúng hơn nữa là những vụ hành quyết này rất cần thiết cho đảng cộng
sản Việt Nam.
SỰ THẬT THỨ NHÌ: Sau
khi kiểm chứng với những dữ kiện đầy đủ, hầu như tất cả các vụ hành
quyết đều do bàn tay của những đảng viên cộng sản nằm vùng, không phải ở
quân chính quy Bắc Việt hoặc QLVNCH. Trên 12,000 binh sĩ QLVNCH đã
chiến đấu để tái chiếm thành phố Huế, và có thể đã gây thiệt mạng một số
thường dân vì lạc đạn. Đa số 150 tên cán bộ chính trị nằm vùng hoạt
động ở tỉnh Thừa Thiên, những người này chính là thủ phạm đã ra lệnh thủ
tiêu các nạn nhân ở
Huế. Cho dù họ đã làm theo chỉ thị của bộ chỉ huy (và ban lãnh đạo
trung ương CSVN), và nếu như thế thì những chỉ thị đó đã có lệnh như thế
nào? Cho đến nay vẫn không ai biết rõ chi tiết.
SỰ THẬT THỨ BA: Ngoài
việc hành quyết những “cường hào ác bá”, cộng sản đã giết hại những nạn
nhân còn lại một cách bí mật và đã không thèm dấu diếm tội ác của họ.
Người ta bây giờ thường nghĩ đến Huế như một pháp trường để hành quyết
tội nhân, với những mồ chôn tập thể lớn. Nhưng trong những ngày đầu tiên
Huế bị chiếm đóng, chỉ có một số ít hành quyết
được bộ đội và cộng sản nằm vùng loan báo để đồng bào đến xem. Những mồ
chôn trong thành phố Huế tương đối dễ tìm thấy, vì để chôn người nơi
đông đảo rất khó dấu được những soi bói tò mò của người xung quanh. Tất
cả những mộ tập thể còn lại đều được dấu kỹ, đa số ở vùng rừng núi hoang
dã, không người qua lại, chắc đây là lý do chính khiến cho những nơi
này đã được chọn lựa.
Một
thân xác chôn vùi trong đồi cát rất khó tìm, cũng như đi tìm một vỏ sò
chôn sâu trong cát trên bờ biển với sóng biển xoá đi những dấu tích trên
chỗ chôn. Suối Đá Mài là một
trong những nơi hẻo lánh nhất của Huế, và chắc hẳn đã làm cho cộng sản
rất tốn công khi đưa các nạn nhân đến đó để giết. Khi đến những nơi này,
người quan sát sẽ nhận thấy rất rõ chủ ý của Việt cộng đã có nỗ lực che
đậy tội ác của họ.
Giả
thuyết mà tôi (tác giả DOUGLAS PIKE) nêu lên ở đây là dự định của cộng
sản VN khi đang chiếm giữ thành phố Huế, và những vụ hành quyết họ đã
thi hành. Từ những chứng tích để lại, chúng ta có thể thấy được rằng, họ
đã không nghĩ đến tương lai của họ ở thành phố Huế, mà chỉ thi hành
những mệnh lệnh của cấp
trên theo nhu cầu cần thiết, và với tình hình thay đổi lúc bấy giờ.
Một
điều quan trọng khác nữa là đã không có một dấu hiệu nào để lại, đủ để
chứng minh rằng, một lệnh hành quyết chính thức được phát ra từ Việt
cộng; Thay vào đó, những quyết định giết để bịt miệng nhân chứng thường
xảy ra theo diễn tiến của cuộc chiến. Sự liên hệ giữa hai điều vừa nêu
ra rất rõ và được chia ra vào ba phần.
Giả
thuyết ở đây là Việt cộng đã phải thay đổi chiến thuật trong suốt 26
ngày tấn chiếm Huế, và cũng từ đó mà “lệnh hành quyết” cũng thay đổi để
thích ứng với nhu cầu và chiến lược. Kết luận này tôi đã có sau khi sưu
tầm những tài liệu của đảng cộng sản Việt Nam, phỏng vấn người tù số 1
và hồi chánh, tường thuật của những nhân chứng còn sống sót, những tài
liệu tịch thu được bởi QLVNCH trên chiến trường, và những đường lối nội
bộ của đảng cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ.
Chiến lược của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (Communist Party of South Vietnam - PRP) cho Phần 1
chiến dịch Đông Xuân đã được nói ra rất rõ trong quân lệnh phát hành trong đêm ba mươi trước ngày tổng tấn công: “…phải
nhất quyết phối hợp các thành phần VC trong thành phố sau khi chiếm
được thành phố. Cấp tố trang bị vũ khí cho các cán bộ chính trị cũng như
dân sự, thành lập ủy ban quản trị từ tỉnh xuống đến quận hạt, phường
khóm, thành lập các toán dân sự chiến đấu và các cơ cấu để yểm trợ quân
đội khi chiến đấu, dùng dân để thành lập tuyến phòng không, và nâng cao
tinh thần đấu tranh của mọi giới cấp để phòng thủ khi ngụy quân phản
công...”
Đây
là
những dự tính và đã xảy ra như vậy lúc ban đầu. Tuy nhiên, những ngày
sau đó, những biến chuyển tình thế đã được thuật lại với chi tiết khác
nhau. Đài Hà Nội, ngày mồng bốn tháng Hai đã nói: “Sau một giờ tấn
công, Quân Đội Nhân Dân đã chiếm được biệt thự của Tỉnh Trưởng Thừa
Thiên, nhà tù và tất cả các văn phòng cơ cấu của chánh phủ ngụy … Quân
Đội Nhân Dân đã trừng trị đích đáng những tên tay sai ác độc của quân
ngụy và kiểm soát chặt chẽ các đường phố, bắt giữ những tên phản động,
phản cách mạng, và đánh xập đổ chánh phủ ngụy hà hiếp nhân dân …”
Trong
thời gian ngắn ngủi chiếm đóng thành phố Huế, những cán bộ chính trị
cộng sản, tháp tùng bởi các toán hành quyết, đi bắt và giết sạch các yếu
nhân của tỉnh Thừa Thiên để chánh phủ VNCH sẽ bị yếu đi sau khi Việt
Cộng rút lui ra khỏi thành phố. Đây là giai đoạn “hành quyết theo sổ
đen”. Tòa án nhân dân được dựng lên, buộc tội, và hành quyết một cách
chớp nhoáng. Những tên cán bộ xuất hiện, tay cầm danh sách và địa chỉ
của các nạn nhân, ra tay thủ tiêu các thành phần mà chúng gọi là “phản
cách mạng”.
Những
phiên tòa này thường được diễn ra ở những
nơi công cộng, hoặc trong vườn rộng dùng làm bộ chỉ huy dã chiến của
việt cộng. Phiên xử thường chỉ cần 10 phút để VC tuyên truyền, đọc cáo
trạng, và buộc tội. Không có một bị can nào được trắng án. Hình phạt
luôn luôn là “tử hình”, và thường các bị can đã bị xử bắn ngay tại chỗ.
Xác của họ được chôn gấp rút, hay trả lại cho gia đình nếu xin. Những
người bị bắt xữ theo lối này, nhiếu nhất là các công an, cảnh sát của
thành phố, nhất là các ban an ninh, mật vụ, quân nhân và binh sĩ, và
những người không phải là cảnh sát hay quân đội, nhưng là những vị lãnh
đạo của các đảng phái, cộng đồng, giáo sư và các tôn giáo.
Ngoài
sự tấn công ác độc nhắm vào thành phần “trí thức” ở Huế, Phần 1 của
chiến dịch Đông Xuân đi theo đúng phương thức hoạt động của đảng cộng
sản Việt Nam. Hủy diệt thành phần trí thức đã liên tục xảy ra trong các
làng xã trong suốt 10 năm trước đó. Sổ đen và địa điểm hoạt động đã được
chọn lựa kỹ càng trước, Việt cộng chỉ chờ cơ hội để thi hành những dự
tính này mà thôi.
Tuy
nhiên, không phải mọi người trong “sổ đen” ở Huế đã bị sát hại. Rất
nhiếu người trong sổ đen đã chạy
trốn vào vùng thôn dã và đã thoát chết. Suốt cuộc chiến 24 ngày liền,
trong những ngày đầu, cán bộ cộng sản rất bận rộn truy lùng tìm bắt tất
cả mọi người trong sổ đen, nhưng sau đó, họ đã chuyển mọi nỗ lực vào các
công tác mới khi đã không bắt được hết tất cả.
HUẾ: GIAI ĐOẠN HAI
Trong
những ngày đầu, cuộc tấn công Tết Mậu Thân ở Huế đã thành công khá dễ
dàng (nhưng ở miền Nam
thì lại khác, Ủy Ban Đảng Cộng Sản Trung Ương đã nhận những bản báo cáo
về kết quả không được mỹ mãn cho lắm từ vùng đồng bằng sông Cửu Long)
nên trong say mê chiến thắng, Việt Cộng tưởng họ có thể giữ được thành
phố Huế lâu dài. Có thể, các đảng viên cao cấp đã không dám nghĩ đến
quyết định tử thủ dài hạn ở Huế, nhưng đối với cấp cán bộ tại làng xã
thì họ đã vững tin như thế. Một thông tin mật của cộng sản bị VNCH bắt
nghe được trong ngày Mồng Hai tháng Hai, kêu gọi các cán bộ ở mọi hạ
tầng cơ sở phải quyết tâm tử thủ Huế, đã tuyên bố như sau:
“Một
giai đoạn mới trong lịch sử, một cuộc cách mạng đã bắt đầu (vì chiến
thắng ở Huế) và chúng ta chỉ cần đánh nhanh đánh mạnh (ở Huế) để kết
thúc cuộc giải phóng trong thắng lợi vinh quang.”
Tờ báo chính thức của đảng cộng sản, Nhân Dân, cũng đã tuyên bố như thế:
“Như
một tia sét, đảng và nhân dân đã tổng tấn công đế quốc Mỹ và các tay
sai đế quốc Mỹ … Guồng máy Ngụy đã
bị tiêu hủy. Những bộ phận cơ cấu của Mỹ-Ngụy đã bị cách mạng đánh tan
rã. Chính phủ Thiệu-Kỳ sẽ hoàn toàn sụp đổ. Quân tay sai đế quốc Mỹ đã
trở thành yếu hèn và sẽ không thể tránh khỏi bị tiêu diệt bởi các chiến
sĩ cách mạng.”
Đương
nhiên, những tin tức này luôn luôn để tuyên truyền và mê hoặc quần
chúng, thường các tin tức loan tải bởi cơ quan truyền thông của đảng
cộng sản là như thế. Muốn biết được những điều này là sự thật hay chỉ là
ước nguyện của đảng cộng sản thì thật rất khó phân biệt. Nhưng từ những
cuộc phỏng vấn các tù binh và hồi
chánh viên, cũng như bắt được làn sóng để nghe lén những mật tin của
cộng sản, các cán bộ cao cấp cũng như lính cộng sản đều đã tin rằng, họ
sẽ chiếm giử thành phố Huế mãi mãi, và họ đã cố gắng làm như vậy.
Giữa
những việc họ làm là tiếp tục thanh trừng những phần tử phản động còn
lại và bắt đầu xây dựng lại hạ tầng cơ sở mới cho đảng và do đảng. Chỉ
thị mới được ban hành, từ ủy ban chính trị trong thành phố, cho các cán
bộ Việt cộng đi truy lùng và bắt những phần tử “chống cách mạng”, có
nghĩa là, bất cứ những cá nhân hoặc tổ chức nào có khả năng
và nhân lực để đi ngược lại đường lối của đảng trong tương lai. Chỉ thị
này rất mơ hồ, và đã không dựa lên phương pháp “sổ đen” nữa, mà ủy thác
toàn quyền quyết định đến người thi hành chỉ thị. Lần này, mục tiêu
không còn là vài nhóm người nữa, mà là “tổ chức hoặc giai cấp trong xã
hội.”
Như
đã thấy trước đây ở ngoài Bắc Việt hoặc ở Trung Cộng, đảng cộng sản lúc
nào cũng san bằng những giai cấp trong xã hội, tiêu diệt những người
trí thức, lãnh tụ các đảng phái chính trị, các vị lãnh đạo tinh thần của
các tôn giáo (các cao tăng Phật Giáo, các Linh Mục
Công Giáo), các đảng phái, các tổ chức xã hội (đàn bà, tuổi trẻ, hướng
đạo), ngay cả những sinh viên thân cộng trước đây nhưng vì gia đình khá
giả thuộc loại tư bản.
Cũng
như thế, đôi khi cả gia đình đều bị sát hại dưới bàn tay cộng sản.
Trong một trường hợp khá nổi tiếng do nhiều nhân chứng thuật lại như
sau:
Một
toán cán bộ ám sát đã xông vào một căn nhà của một người có địa vị
trong thành phố Huế, bắn ông ta, vợ ông ta, con trai và con dâu, con
gái còn nhỏ, hai người đầy tớ và đứa bé con của họ! Ngay cả con mèo cũng
bị bóp cổ cho chết, con chó thì bị đập vỡ sọ, những con cá vàng trong
chậu cũng bị đổ ra sàn nhà dãy dụa chết. Sau khi những tên cán bộ bỏ đi,
trong nhà không còn một ai sống sót. Một “cơ cấu xấu của xã hội” đã bị
tiêu diệt!!!
Giai
đoạn 2 cũng gồm có những hoạt động nhắm vào những giai cấp trí thức,
giai cấp mà có lẽ có rất nhiều ở Huế hơn những vùng khác ở Việt Nam.
Những học giả còn sống sót ở Huế đã giải thích việc này
như một mối thù truyền kiếp của cộng sản đối với giới trí thức của Huế,
mà đại đa số là những người tuyệt đối chống cộng, đã không màng đến
CSVN.
Những
học giả ở Huế xem thường chủ nghĩa cộng sản như một ý thức “đến sau”,
sau những chủ thuyết khác, và đã xem nhẹ vấn đề cộng sản. Cố Đô Huế, một
thủ đô cổ kính, với rất nhiều giới trí thức thấm nhuần đạo lý Khổng Tử,
cộng thêm những giáo thuyết nhà Phật, đã không chú ý đến chủ nghĩa cộng
sản kể từ những năm đầu trong thập kỷ 1920, 1930.
Huế
không màng biết tới cộng sản là gì? Thí dụ điển hình là trong Viện Đại
Học Huế, một lớp học về các chủ thuyết chính trị trên thế giới, thời
gian học là một năm, nhưng chỉ dành vỏn vẹn có nửa giờ để nói sơ sài về
chủ thuyết Marxism-Leninism, lại nói rõ rằng ý thức cộng sản không có gì
mà chỉ là một ý thức nông cạn, mọi rợ và đã không có chiều sâu, cũng
như đã không được trắc nghiệm như những chủ thuyết khác như Khổng Tử
hoặc Đạo giáo, với những bí kiếp nhiệm mầu, tư tưởng cao siêu, và đã đi
sâu với nhân tánh như đạo Phật.
Vì
thế nên những người cộng sản gốc Huế, khi đã thấm nhuần và mù quáng bởi
chủ nghĩa cộng sản, đã trở thành những kẻ vô tri, vô hồn khi bị hất hủi
bởi những giới trí thức khác hay tôn giáo ở Huế. Hoặc tệ hơn nữa, thay
vì bị hất hủi, họ đã bị loại hẳn ra khỏi giới trí thức Huế. Vì thế, với
sự trung thành và tin tưởng tuyệt đối vào chủ thuyết cộng sản, họ đã tìm
cách trả thù và san bằng những sự khác biệt này. Những người trí thức
còn sống sót đã phải trả một giá rất đắt cho bài học này, từ đó họ đã
chú ý đến và e sợ cộng sản hơn, nếu không là một chủ thuyết chính đáng,
ít nhất cũng phải là một nhóm cuồng tín vô
thần rất nguy hiểm!
Trong
giai đoạn 2, có lẽ khoảng 2,000 người đã bị cộng sản giết hại. Nhưng đó
vẫn chưa phải là giai đoạn sát hại khủng khiếp nhất.
HUẾ: GIAI ĐOẠN BA
Cuối
cùng rồi, cũng như Trung Ương Cộng Sản ở Hà Nội
đã biết trước (vì đã hiểu rõ thế và sức mạnh của QLVNCH và đồng minh),
con cờ đã xoay chuyển trong cuộc chiến ở Huế. Một bản mật tin truyền đi
từ Thành Nội (bị QLVNCH nghe được) bởi đám tàn quân Việt Cộng ngày 22
tháng Hai, xin ban tham mưu hành quân cho phép được rút quân. Bản trả
lời như sau từ bộ chỉ huy: không cho phép rút quân, ngày hôm sau, 23
tháng Hai, phải tấn công nữa. Trận tấn công ngày 23 đã xảy ra, nhưng rất
yếu ớt, không gây thiệt hại gì cho bên VNCH và đồng minh. Vào ngày 24
tháng Hai, Thành Nội được giải tỏa khi VC bị đánh bại.
Từ
tuần trước đó, Cộng Sản Việt
Nam đã thấy rõ sự thất bại sẽ phải đến. Khi đó, giai đoạn 3 mới bắt
đầu: giai đoạn thủ tiêu nhân chứng và tang chứng. Có thể trong suốt giai
đoạn 2, hầu hết tất cả những việt cộng nằm vùng ở Huế đã bị lộ mặt nạ.
Ngay cả những cán bộ nằm vùng trước đó, dù đã không bao giờ bị nghi ngờ
là VC, nay cũng đã ra mặt (vì tin tưởng rằng Huế đã và sẽ mãi mãi thuộc
vào tay cộng sản). Chuyện thường tình như một dân Huế kể lại sự ngạc
nhiên của ông khi biết được người hàng xóm bên nhà là một cán bộ nằm
vùng cao cấp trong hàng ngũ MTGPMN (hắn là một cán bộ cao cấp trong
thành phố Huế): “Tôi biết ông ta 18 năm nay, mà không bao giờ nghĩ đến
ông ta có thể hoạt động chính trị như vậy.” Những người cán bộ này nằm
vùng rất lâu, và
chỉ lộ diện mỗi khi không có ai hay biết để giữ kín tông tích của mình.
Vì
thế, giai đoạn 3 khởi đầu để “bịt miệng nhân chứng”. Có thể giai đoạn
này, số nạn nhân lên cao nhất ở Huế, cũng vì lý do này. Những người
trước đó bị bắt đi học tập với ý định ban đầu là sẽ thả họ về. Nhưng vì
là dân làng, cũng như những tên cán bộ nằm vùng đã bắt họ; tên tuổi và
mặt mũi của những cán bộ này giờ đã lộ. Vì thế, họ đã phải chết, không
phải vì là một con nợ hay gánh nặng, nhưng vì họ sẽ trở thành những
người tố cáo những tên nằm vùng. Ví dụ rõ ràng nhất là
nhóm người bị bắt đi từ nhà thờ Phủ Cam. Hay trường hợp của 15 em học
sinh trung học bị chôn ở Phú Thứ trong các gò muối biển.
Việc
tìm những tài liệu lịch sử để đi đến một kết luận cho lý do tại sao,
dựa trên một vài giả thuyết, đương nhiên sẽ có chỗ đúng chỗ sai, và chỉ
vẽ lại một hình ảnh khá sơ sài cho độc giả. Sự việc xảy ra ở đời thường
không đơn giản như bài viết. Ví dụ như, cho dù trong suốt thời gian
những vụ hành quyết dựa vào “sổ đen” đang xảy ra, đương nhiên cũng có
những chuyện trả thù theo “đường lối công bằng của cách mạng”. Và chắc
chắn cũng có những vụ trả thù riêng tư giữa những cán bộ với người họ
ghét bỏ!
Quan điểm chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam về thảm sát ở Huế được nói rõ ra trong một cuốn sách nhỏ phát hành ở Hà Nội:
“Liên
kết và phối hợp với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và nhân dân, những
toán nhân dân võ trang và cán bộ võ trang thành phố Huế đã bắt giữ và
kêu gọi những tay sai đế quốc, sĩ quan VNCH và binh lính
của quân ngụy ra đầu hàng. Những tên ngoan cố đã được trừng trị đích
đáng.”
Ở
Hòa Đàm Paris, Cộng Sản Việt Nam đã công bố việc thảm sát này không
phải do bàn tay của đảng Cộng Sản, mà chính là hành động của những cán
bộ ở Huế bất mãn với chế độ. Tưởng cũng nên nhắc lại: vào ngày 26 tháng
Tư năm 1968, Đài Giải Phóng Hà Nội đã chê trách việc chính phủ VNCH cố
tìm xác của các nạn nhân, đài đã phát thanh rằng những người bị giết hại
chỉ là “những tên tay sai đã nhúng tay vào máu của nhân dân yêu nước ở
Huế và họ đã bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa giết hại
vào tháng Ba tháng Tư.”.
Những
lời tuyên truyền này sau đó đã được thay thế bởi một lý do khác là
“thảm sát ở Huế chỉ là những vụ thanh toán tranh chấp giữa các đảng phái
ở Huế mà thôi.”
trích từ "Viet Cong Strategy of Terror” trang 23 đến trang 29
Ngô Xuân Hùng
Thung Lũng Hoa Vàng,
Ngô Xuân Hùng
Thung Lũng Hoa Vàng,
ngày 15 tháng Tám, năm 2002.
(Thứ nam của Cố Ðại Tá Ngô Thế Linh,
Phó Giám Ðốc Nha Kỹ Thuật, Bộ Tổng Tham Mưu, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa)
Xin ghi nhận và chân thành cảm tạ cố Giáo Sư Douglas Eugene Pike, trường Ðại Học Texas Tech, Texas, U.S.A
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Phản Hồi