Bs. Phạm Hồng Sơn - Martin Luther King và Muhamad Gaddafi đều
là những người không khoan nhượng, đều đã chết và đều bị giết chết bởi
những viên đạn thù địch. Sự không khoan nhượng dẫn đến cái chết của King
là sự bất khoan nhượng trước những thách thức, đe dọa của bất công xã
hội, còn Gaddafi lại là sự nhất quyết không khoan nhượng với những tiếng
kêu đòi công lý, công bằng của con người. Rất có thể nếu Gaddafi biết
trước được cái chết của mình như thế nào và những gì sau khi chết thì
Gaddafi đã sớm từ bỏ sự không khoan nhượng đó - điều đã chứng tỏ rất
xứng với cái tên: ngoan cố. Suy cho cùng mọi sự ngoan cố đều, nói theo
kiểu uyển ngữ phương Đông, là do vô minh, còn nói một cách thẳng thắn,
là do ngu dốt. Và ai là con người lại dám tự nhận không bao giờ ngu dốt
và không bao giờ chết? Song, cái chết là đương nhiên còn sự vô minh-ngu
dốt lại có thể tránh được hay giảm thiểu.
Không có những từ to tát cao giọng như trên, cũng không có những gợi tả
hiện thực bi thảm hay hùng tráng, bài viết sau đây vẫn khiến ta phải suy
tư rất nhiều về đời sống con người, sự tồn tại của con người – người
thừa tiền, kẻ đói cơm, người yếm thế, kẻ cường quyền…, và cả về cái thể
chế hay vũ trụ mà trong đó con người đang tồn tại. Như Cây Tre Việt Nam
trân trọng giới thiệu:
Nhìn lại cuộc sống hay khát vọng đa nguyên
Nguyễn Huy Canh *
Chúng ta đã biết, cuộc Cải cách ruộng đất (1950-1956), tổ chức Hợp tác
xã toàn xã (1976 – 1977) và công cuộc cải cách Công thương nghiệp ở miền
Nam sau 1975 là một sai lầm lớn. Sự đổ vỡ của hệ thống Xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xô và Đông Âu cũng là kết quả của một loạt sai lầm lớn. Người ta
đã cho những sai lầm đó thuộc về đảng Cộng sản, và nói rộng hơn thuộc
về chúng ta đã không hiểu và áp dụng đúng triết học Marx-Lenin.
Không, chúng ta không sai lầm. Nếu có, theo tôi, chỉ là ở chỗ chúng ta
đã không dám nhìn ra những sai lầm và lỗi thời của triết học ấy. Dĩ
nhiên chúng ta cũng thấy rằng những tư tưởng triết học của các ông đã
đáp ứng được những đòi hỏi mà thời đại các ông đặt ra, các ông đã có
những cống hiến to lớn cho nền triết học thế giới.
Thế giới ngày nay đã có quá nhiều biến đổi về công nghệ và quan hệ chính
trị. Và đặc biệt chúng ta, từ một đất nước bị nô dịch bởi ngoại bang
một cách chính thống đã trở thành một nước có chủ quyền chính thống. Và
mỗi chúng ta từ thân phận thần dân và nô lệ đã trở thành công dân chính
thống của một nước độc lập chính thống, và cao hơn còn là dân trong một
thế giới có hiến pháp.
Ở mức độ triết học, tôi gọi mỗi chúng ta đã sinh ra ở “điểm” phân rã của thế giới hiện thực. Y là một hữu thể.
Thời đại chúng ta đang sống cần phải có một trào lưu triết học riêng,
một tư tưởng triết học riêng để đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống. Chủ nghĩa
duy vật hiện đại là một sự hạn chế. Gần 50 năm đã qua chúng ta đã đi
trên con đường còn nhiều hạn chế đó.
Không thay đổi để có một cách nhìn mới, không vượt lên trên triết học đó
chúng ta không thể tiến lên nổi một bước nào về phía trước.
Tôi ý thức sâu sắc rằng thay đổi một quan niệm, lối suy nghĩ đã thành
thói quen của một thế hệ nhiều người là một điều rất khó khăn. Do vậy
công việc này đòi hỏi phải có sự đóng góp của rất nhiều người.
Tồn tại và hiện thực
Sự suy nghĩ triết học về thế giới, tức là về các sự vật và hiện tượng
xung quanh cho đến con người và lịch sử là nội dung trả lời cho câu hỏi
nó được sinh ra như thế nào? Bản chất của nó là gì? Có hay không?
Câu hỏi về vạn vật của thế giới đã được triết học đặt ra và giải quyết từ lâu với những nội dung khác nhau.
Với triết học Mác-xít, thế giới là có bản chất, và được hiểu là vật
chất. Rằng vạn vật trong thế giới từ cái cây, hòn đá, cái xanh, cái vàng
là những dạng tồn tại cụ thể của nó, là vật chất được biểu hiện ra ở
một hình thái xác định.
Nhưng vật chất là gì? Ăng ghen có giải thích rằng sau vô hạn phép loại trừ những phẩm chất, tính chất riêng biệt, đặc thù ở các sự vật, cái chung nhất còn lại trong chúng là vật chất. Sự giải thích này của ông đã bộc lộ ít nhất hai hạn chế: 1, sự loại trừ ấy là vô hạn, nên vật chất với tính cách là vật chất là một khái niệm không định nghĩa được. 2, nó đã ngầm xác quyết sự tách rời, xác định giữa vật chất và ý thức.
Lenin sau này cũng có nói rằng khi ta định nghĩa chẳng hạn “Con lừa là
một động vật” ta đã đặt chủ từ con lừa vào vị từ động vật có ngoại diên
rộng hơn. Vật chất là vô hạn, vô tận nên người ta không thể đưa ra định
nghĩa theo cách đó được.
Điều đó có nghĩa là theo quan điểm Bản thể học, chúng ta không xác định
được vật chất cũng như cơ cấu tồn tại tổng quát của nó là gì? [nhớ rằng
quan điểm “thực tại khách quan” của Lenin chỉ là phạm trù của lí luận
nhận thức. Và ngay trong cái giới hạn vẻn vẹn này ông cũng đã sai lầm
khi vạch ra sự phân chia tuyệt đối giữa vật chất và ý thức. Vậy đâu là
cơ sở để chúng ta khẳng định vật chất là một bản chất chung nhất có
trong vạn vật: rằng cái bàn, hòn đá, cái xanh, cái đỏ là hình thái tồn
tại cụ thể; là biểu hiện cụ thể của vật chất?
Chúng ta phải có một sự thừa nhận Tồn Tại đã phát triển từ vô cơ đến
giới hữu cơ, từ không có sự sống đến sự xuất hiện của các sinh vật. Tồn
tại tự quy định cho bản thân nó, trong giai đoạn đầu là Đồng nhất với
chính nó. Một sự đồng nhất trừu tượng. Tôi gọi là Tồn- Tại -Thuần- Túy.
Tồn tại thuần túy không phải là tồn tại trống rỗng. Nó là giai đoạn đầu
của Thế giới hiện thực. Nó chưa biểu lộ mình, chuyển mình ra ở Tồn-Tại-
Khác. Trái Đất hôm nay đã có nhiều biến đổi, nhưng khoa học địa lý vẫn
cho chúng ta biết được cái gì đó đã từng tồn tại hàng tỷ
năm về trước. Rất nhiều các sự vật như thế: Mặt trời, mặt trăng, ánh
sáng, bụi khí... đã có “lịch sử” tồn tại lâu dài. Chúng ta gọi nó là
những bộ phận của Tồn tại thuần túy.
Sự tồn tại của Tồn tại thuần túy là có thực. Nó được suy ra từ kinh
nghiệm của khoa học tự nhiên, kinh nghiệm đời sống của mỗi chúng ta,
rằng nó không phải là một tiền đề giả định của triết học. Một quá trình
phát triển về sau đã làm xuất hiện cảm giác ở con người. (Đó là một quá
trình lâu dài của thế giới. Những phản xạ tự nhiên, những cảm giác thích
thú, đau đớn chúng ta đã thấy có ở những loài động vật bậc cao. Cảm
giác, ý thức ở con người là kết quả tiếp theo của sự biến đổi tự nhiên
ấy). Cảm giác là hình ảnh đầu tiên của Tồn tại về chính mình, là Tồn tại
lần đầu tiên biết về mình, mở ra mình như là thế trong hình thái xác
định ở con người nguyên thủy. Trong trạng thái Đồng nhất trừu tượng, Tồn
Tại chưa như là cái gì. Sự xuất hiện của cảm giác nói lên một điều: Tồn
Tại thuần túy đã phát triển đến trình độ Bản chất, tức là đến cái trình
độ có khả năng biểu hiện mình qua cái khác, Tồn- Tại- Khác. Tồn tại
xuất hiện mình ra như là ... là Tồn tại trong tính quy định bản chất,
còn cảm giác chỉ là biểu hiện bên ngoài của thế giới trong tính cụ thể -
Nó là hiện tượng thế giới. Tồn tại biểu hiện mình ra như là cái cây,
hòn đá ấy trong lĩnh vực của Tồn tại là những mặt, những bộ phận, khía
cạnh, tính chất hợp thành của vật chất. Nó là thực – tồn của Bản chất.
Sự thống nhất, đồng nhất giữa Bản chất và Hiện tượng giữa vật chất và
cảm giác là ở trong tính thực tồn của Bản chất, còn sự khác biệt là ở
trong tính hình ảnh của cảm giác, tính bị quy định. Theo nhận thức luận,
sự thống nhất và khác nhau giữa chúng là ở trong tính khách quan do Tồn
tại quy định và trong tính chủ quan của cảm giác. Nhờ tính khác biệt
này giữa tư duy và Tồn tại, giữa Bản chất và hiện tượng thế giới mà
trong sự phát triển về sau khi đã có một sự tồn tại độc lập của Hiện
tượng, của bề ngoài, cũng tức là năng lực tư duy trừu tượng, tư duy đã
phân chia, chia cắt Tồn tại ra thành những bộ phận, những mảnh vụn để
nghiên cứu xem xét. Tính ưu việt này của tư duy cũng là hạn chế của nó.
Chính từ đây đã làm nảy sinh ra biết bao sai lầm và rắc rối của tư duy
triết học.
Ta xét một ví dụ: Các nhà triết học vẫn xem ngôi nhà có một bản chất, đó
là nơi mà người ta dùng để ở. Tất cả các ngôi nhà khác (họ gọi là các
hiện tượng) đều giống nhau ở bản chất ấy. Các triết gia duy tâm cũng như
các nhà duy vật đều nói như vậy. Khái quát nên, vạn vật tuy khác nhau
nhưng đều chứa một Bản chất ấy. Sự khác nhau chỉ ở trong cách giải thích
của họ.
Nhưng thực ra cái bàn, hòn đá vỡ, lá cây run rẩy, mưa rơi không phải là
những hiện tượng của một bản chất nào đó. Nơi người ta dùng để ở không
phải là bản chất của nhà, mà cái nhà chỉ là một bộ phận hợp thành của
Bản chất thôi, rằng nơi người ta dùng để ở chỉ là đặc tính chung của các
ngôi nhà đó.
Hiện tượng chỉ là cảm giác, là ý thức và ngược lại, hòn đá, cái cây, màu
xanh trong cảm giác mới là hiện tượng (thế giới). Trong lĩnh vực thực-
tồn, cái cây, hòn đá, màu xanh không có một sự tồn tại riêng, độc lập
với những bộ phận khác, cái khác. Nó chỉ là những bộ phận, những mặt hợp
thành không tách rời của Tồn tại.
Khi khoa học đặt ra câu hỏi cái nhà này có bản chất gì? Hạt mưa rơi có
bản chất gì? Tức là họ đã đi tìm đặc tính chung của các vật đó, hoặc là
tìm hiểu về cấu tạo, về cơ chế hoạt động của chúng, hoặc là những nguyên
nhân đã tạo ra chúng .. điều đó là đúng. Nhưng với triết học, câu hỏi
đó đáng ra phải được đặt ra là cái nhà trong cảm giác chúng ta, hạt mưa
rơi ... trong cảm giác chúng ta có từ đâu, có bản chất gì? Tổng quát
phải là câu hỏi về vạn vật trong cảm giác chúng ta có bản chất gì?
Sự sai lầm của một thời đại triết học chính là ở chỗ chúng ta cứ loay
hoay đi tìm và tranh cãi về bản chất của những vật trong thực-tồn-bản
chất, trong thực tại khách quan giống như phương pháp mà tư duy thông
thường cũng như tư duy khoa học đã làm. Cảm giác như chúng ta thấy thông
thường được sinh ra từ sự tiếp xúc trực tiếp của giác quan với sự vật.
Cảm giác mặn sinh ra khi tiếp xúc với muối, nên chúng ta thường hiểu lầm
rằng:
1. Mọi cảm giác chúng ta có được là do các vật ấy đem lại (khi có sự tiếp xúc) hoặc các vật ấy biểu lộ ra trong cảm giác.
2. Cảm giác đó là kết quả của quá trình nhận thức của riêng chúng ta về đối tượng bên ngoài chủ thể, tức là về thế giới khách quan.
Điều này chỉ đúng một phần, thực ra đó là kết quả vận động của toàn bộ
Tồn tại đem lại: bộ óc của chúng ta không tách rời khỏi cơ thể, cơ thể
không tách rời khỏi môi trường… Do đó mọi suy nghĩ của chúng ta có được
về khách thể cũng là của Thế giới: cảm giác ta có về cái mặn là Tồn tại
tự biểu lộ mình ra như là mặn ở cảm giác; là thế giới đang tự nhận thức
về bản thân mình, nhận thức về những mặt, những phẩm chất, những bộ phận
của mình theo cách lộ ra, mở ra như thế. Đó cũng là những hình thái xác
định cụ thể của Tồn tại, của thế giới trong tính hiện thực.
Như vậy trong tư thế này, con người chỉ là kẻ, là vật mang cái
quá trình nhận thức ấy của Tồn Tại. Y chưa bao giờ-trong tư cách ấy-là
chủ thể của Tồn Tại cả. Quan điểm triết học về tính chủ thể đã từng tồn
tại trong lịch sử từ Kant đến E.Husserl trên nền của cái siêu nghiệm cho
đến quan điểm chủ thể của Marx-dù đã được bổ sung bởi hoạt động thực
tiễn- là một sự nhầm lẫn của nhân loại trong những cố gắng suy tư về chủ
thể
Khi ta nói Tồn tại trong hình thái là xanh, là mặn thì nó có nghĩa là:
1. Cái xanh, cái mặn... chỉ là bộ phận, là một tính quy định không tách rời cái Tuyết đối ấy,
2. Tính quy định ấy (tức là cái xanh, cái mặn) phải gắn liền, phải đồng nhất (trong sự khác biệt) với cái xanh, cái mặn trong ý thức do cái toàn thể tuyệt đối đem lại.
Tồn tại tự biểu lộ mình ra ở cảm giác, đó là một quá trình chuyển hóa
vật chất thành ý thức. Bản chất chuyển mình, đổi mình ra ở Hiện tượng.
Quá trình này được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người
được hiểu như là điều kiện, là cơ chế của nó. Hình thức hoạt động đầu
tiên ta tìm thấy ở lao động tìm kiếm thức ăn và sản xuất ra công cụ lao
động. Hiện tượng thế giới ở trình độ ban đầu (dĩ nhiên) còn nghèo nàn,
chủ yếu mang tính hiện thực trực tiếp, cụ thể. Do đó nó còn “gần”, còn
gắn chặt với thực – tồn bản chất, bị phụ thuộc nhiều vào Tồn tại. Nhưng
dần về sau, hàng nghìn năm chậm chạp trôi đi, thông qua lao động sản
xuất đấu tranh với thiên nhiên và xã hội, rằng tri thức con người có
được trở nên phong phú về nhiều mặt, sự hiểu biết về khí hậu, thời tiết
các mùa, cách gieo trồng, chăn nuôi trong nông nghiệp, những tri thức về
khai thác mỏ, nghề mộc, nghề rèn cho đến sự hiểu biết trong lĩnh vực về
kinh tế tài chính cho đến chính trị và quân sự. Lúc đầu những tri thức
này ở dạng thói quen và những kinh nghiệm được đúc kết sau rất nhiều năm
và rồi nó được tổng hợp, khái quát hóa thành các khái niệm và trên đó
những hệ thống lý thuyết mới được ra đời. Như vậy hoạt động thực tiễn
diễn ra đã làm cho tri thức ngày càng được hình thành, củng cố và phong
phú. Và hiện tượng thế giới ngày một hút vào trong mình nhiều tính quy
định của Bản chất. Tri thức ngày càng một tiến gần chân lý khách quan
luôn biến đổi.
Thực tiễn đồng thời còn là sự vận dụng, ứng dụng những kinh nghiệm,
những tri thức nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cuộc sống
con người. Môi trường sống, hoàn cảnh sống và những điều kiện sản xuất
luôn được cải tạo, thay đổi và làm mới (con người đã biết làm ra nhà
cửa, xây dựng làng mạc, thay đổi phương tiện đi lại, cải tạo đất đai khô
cằn thành những đồng ruộng phì nhiêu, những công cụ sản xuất mới dùng
trong nông nghiệp như cuốc, cày đã thay đồ đá, đồ đồng trước đó).
Đặc biệt là sau thế kỷ 18 trở đi, với sự ra đời của máy hơi nước, nền
công nghiệp đã xuất hiện thay cho kỹ thuật sản xuất thủ công, cơ bắp.
Thế giới hiện thực như đã có được bộ mặt hoàn toàn mới. Một khối lượng
sản phẩm khổng lồ được tạo ra làm thay đổi hẳn nhu cầu về ăn, ở và đi
lại của con người cũng như trong các lĩnh vực sản xuất...) Quá trình đó
là sự chuyển hóa tất yếu, sự phủ định tất yếu. Hiện tượng thành Bản
chất. Ý thức phát triển thành Tồn tại ở trình độ mới ngày càng cao. Như
vậy trước mắt chúng ta có hai quá trình của một vòng khâu sinh thành của
thế giới đã được thực hiện. Sự vận động, phát triển của thế giới là một
chuỗi những vòng khâu như thế.
Nhưng chúng ta cũng ý thức sâu sắc rằng vòng khâu sinh thành ấy không
phải cứ tuần tự diễn ra đến vô tận như một công thức có sẵn, một quy
luật giản đơn của Tồn tại mà trên thực tế, quy luật ấy đã “xuyên qua”
rất nhiều bước quanh co và thăng trầm của thế giới.Thậm chí qui luật ấy
còn bị đổ vỡ, không bao giờ xảy đến ở một “khu vực” của Tồn tại.
Cuộc khủng khoảng của chế độ nô lệ ở châu Âu, chiến tranh diễn ra liên
miên ở Trung Quốc cổ đại; Thế giới trong thế chiến thứ 2, ngày nay là
cuộc chiến vùng vịnh, Afghanistan, những xung đột gay gắt ở Trung Đông
và Bắc phi. Đó là những hình ảnh tàn khốc và bi thương trong những ấn
tượng của chúng ta về lịch sử thế giới.
Sự khủng khoảng, đổ vỡ của thế giới hiện thực không chỉ diễn ra trong
phạm vi lịch sử nhân loại mà nó còn diễn ra từ một hướng khác, một chiều
kích khác. Kể từ khi hiện tượng đạt được sự phong phú của tính quy định
Bản chất cũng như sự phát triển bề ngoài (tức là tính chủ quan) của nó,
đã làm cho con người – kẻ mang Hiện tượng thế giới – bứt được mình ra
khỏi thế giới ấy và tồn tại như những Hữu thể độc lập.
Giới tự nhiên trở thành một đối tượng bên ngoài của quá trình nhận thức,
tìm kiếm và khai thác của các hữu thể như những chủ thể chân chính của
lịch sử và của những suy tư triết học.
Sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên cũng như cân bằng sinh thái bị vi phạm
nghiêm trọng đã đặt thế giới hiện thực vào một tình huống, một nguy cơ
mới. Những nguồn năng lượng để duy trì trình độ bản chất, tính quy định
vật chất của Tồn tại ngày một suy kiệt. Cơ sở của thế giới hiện thực
đang có nguy cơ bị phá vỡ, phá hủy... có thể rồi đây nó phải quay về với
Tồn tại Thuần túy. Trả lời câu hỏi này cũng là sự lo ngại và quan tâm
của toàn nhân loại trong thế kỉ 21 này.
Kết luận:
Trong những suy nghĩ của chúng tôi, thế giới ban đầu là Tồn tại Thuần
túy. Tồn tại Thuần túy không phải là cái gì khác mà chính là Tồn tại...
trong chính nó. Tức là trình độ còn đồng nhất với chính bản thân nó. Ở trình độ này, Tồn Tại được “hình dung” như một khối đồng chất
chưa có bất kỳ một sự phân chia nào, một sự khác biệt nào trong bản
thân nó. Mưa rơi, gió thổi, hệ động- thực vật…như chúng ta thấy trong
tâm thế tự nhiên, trong bức tranh của khoa học tự nhiên như là cái gì có
sẵn, có trước ý thức, bên ngoài ý thức bày ra như thế. Đúng là có mưa
rơi, có gió thổi, mặt trời, những đám mây; có cái xanh, cái đỏ, cái
vàng…Nhưng thực ra chúng chỉ là những bộ phận của Tồn Tại chưa được mở
ra ở ý thức như là thế. Và do đó nó không phải là Tồn Tại trong cái
hình thái xác định ấy. Không có mưa, không có gió, không có thời gian và
không gian, không có độ dài, khối lượng, không có cái xanh, cái đỏ, cái
vàng…như là Tồn Tại đang mở ra như thế, mà chỉ có một khối đồng chất chưa phân chia. Đây cũng chính là điều mà những bộ óc vĩ đại nhất của khoa học tự nhiên cũng không thể nào hiểu được: thế giới như là thế… không phải là cái gì có sẵn, có trước, khách quan, bên ngoài sự quan sát của các nhà khoa học.
Từ trình độ còn đồng nhất với chính nó, Tồn tại phát triển đến trình độ
Bản chất, tức là hiện mình ra ở cảm giác, biểu tượng và nói chung là ý
thức. Chúng ta có thế giới hiện thực. Đó là sự thống nhất hai mặt vật
chất và tinh thần, trong đó vật chất là cơ sở, là nền tảng, là Bản chất
của thế giới trong đó có sự tồn tại, và tham dự của chúng ta.
Cái xanh, cái đỏ, cái mặn được đem lại trong cảm giác là thực–tồn bản
chất. Nó là những mặt, những bộ phận hợp thành bản chất được xác định
như là thế bằng cách mở ra ở ý thức. Còn cảm giác, ý thức đó là Hiện
tượng thế giới, và chỉ có nó mới là hiện tượng. Sự thống nhất của chúng
là thế giới, là Tồn Tại trong hình thái xác định, cụ thể như là cái
xanh, cái đỏ ấy. Sự thống nhất này luôn hình thành, phát triển thông qua
hoạt động thực tiễn của con người. Chúng ta có một định nghĩa:
a. Con người là một bộ phận của lĩnh vực thực – tồn vật chất.
Hoạt động thực tiễn của nó là hoạt động mang tính quy định của vật chất,
tức là mang tính phổ biến, tất yếu.
b. Quá trình chuyển hóa qua lại giữa tư duy và Tồn tại trong vòng khâu sinh thành của hiện thực chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn.
Hữu thể
Hiện tượng thế giới trong những giai đoạn khởi đầu còn mang tính trực
tiếp của hiện thực. Nó là những dấu hiệu lẻ tẻ, đơn nhất xuất hiện ở
trình độ cảm giác, biểu tượng trong đầu óc con người.
Hàng vạn năm trôi qua của con người nguyên thủy, có thể tính từ người tinh khôn,
hiện tượng thế giới, tức là tri thức mà nó có được chỉ là những phản
ánh trực tiếp, đơn giản những sự vật, thế giới xung quanh trong việc tìm
kiếm thức ăn có sẵn trong tự nhiên (hoa quả, tôm cá, thú vật) cũng như
trong việc mài, đẽo những công cụ và đồ trang sức bằng đá.
Cuộc sống của nó từ ăn, mặc, đi lại đến việc thực hiện quá trình sản
xuất cũng như các quan hệ giao tiếp với cộng đồng, cho đến việc duy trì
nòi giống cho chúng ta thấy một bức tranh chung là con người còn gắn
chặt, còn lệ thuộc gần như hoàn toàn vào giới tự nhiên giống như các
động vật khác.
Dần dần theo thời gian, cùng với quá trình lao động tri thức của con
người về thế giới cũng đã đạt được sự phong phú nhiều mặt: Nó phát hiện
ra tác dụng của kim loại đồng và sắt đối với quá trình sản xuất. Nhờ
những công cụ mới được làm ra như cuốc, cày đã làm cho các nghề chăn
nuôi, trồng trọt và thủy lợi trong nông nghiệp, nghề rèn, mộc, gốm trong
thủ công nghiệp cũng như việc buôn bán thương mại dần ra đời và phát
triển mạnh mẽ trong suốt hàng nghìn năm sau đó.
Từ những kinh nghiệm, những tri thức dân gian (ca dao, tục ngữ) trong
sản xuất, trong chiến tranh quân sự, trong tôn giáo và thi ca được tích
luỹ lâu dài giúp con người khả năng trừu tượng hóa, khái quát hóa để
hình thành nên hệ thống tri thức và lý thuyết mới.
Hơn hai nghìn năm phát triển, hiện tượng thế giới đã đạt được phong phú
đa dạng và tính độc lập trong sự tồn tại của nó. Tính độc lập thể hiện ở
chỗ xuất hiện một đội ngũ những người lao động trí óc và các ngành học
ngày càng chuyên biệt: thi ca, sử học, thiên văn học, toán học, chính
trị học. Nếu trước kia ở giai đoạn nguyên thuỷ, hiện tượng trực tiếp
sinh ra từ Bản chất, thì giờ đây từ những tri thức kinh nghiệm có sẵn,
những mệnh đề, tiên đề có sẵn những kiến thức mới được hình thành, tức
là Hiện tượng đã sinh ra từ trong bản thân nó (như trong
toán học, định nghĩa về hai đường thẳng // và tiên đề 5 Ơ-clít người ta
suy ra hệ quả: hai đường thẳng cùng // với đường thẳng thứ ba thì //)
Hiện tượng sinh ra hiện tượng, chính khả năng này làm cho
nhiều hệ thống lý thuyết đạt được sự độc lập tách rời với các quá trình
của lĩnh vực bản chất. Nhưng quá trình sản xuất ra đời sống của mình,
tức là phát triển và thỏa mãn các nhu cầu về ăn, ở, mặc, đi lại cũng với
quá trình đấu tranh xã hội luôn là giới hạn cho sự thống nhất giữa Hiện
tượng và Bản chất, giữa Tư duy và Tồn tại. Tức là những chân lý được
kiểm chứng, được phát hiện. Sự phát triển độc lập của Hiện tượng thế
giới luôn được đặt trong những giới hạn đó. Tuy nhiên, do sự tự hình
thành nên những giới hạn trên cũng luôn bị phá vỡ (chúng ta tìm thấy
điều này rất rõ nét trong những lý giải sai lầm của con người về thế
giới, về bản thân mình).
Sự phát triển của tri thức, của sự hiểu biết của con người đối với thế
giới gắn liền với sự mở rộng của quá trình sản xuất nông nghiệp, thủ
công nghiệp và thương nghiệp đã làm cho tính lệ thuộc, phụ thuộc gần như
hoàn toàn vào giới tự nhiên không những đã mất đi mà nó còn làm chủ
được, kiểm soát được giới tự nhiên trong những mức độ nhất định.
Trong quan hệ xã hội là sự tan rã của tổ chức nguyên thuỷ đưa tới cộng
đồng làng xã với những quan hệ láng giềng (bên cạnh quan hệ huyết thống)
và tổ chức Nhà nước ra đời.
Con người không còn là một bộ phận không tách rời của cộng đồng nữa. Chế
độ chiếm hữu tư nhân về của cải xuất hiện; mảnh vườn này là của tôi,
còn căn nhà kia là của anh là những ý niệm rất rõ ràng của nó. Cùng với ý
thức, con người đã biết hành động để bảo vệ, để giữ gìn mảnh vườn, căn
nhà và những công cụ sản xuất đơn giản, nhỏ bé cho cuộc sống của mình.
Nhờ những của cải, những tài sản riêng này mà đời sống của Y được tồn
tại. Ngược lại Y có thể bị rơi vào hàng ngũ những người nô lệ, hoặc bị
chết vì đói rét.
Như vậy ở vào thời kỳ nguyên thuỷ, xét theo bản chất, con người cũng gần
như cái cây, hòn đá, con lừa, sự khác nhau chỉ ở hình thái của nó. Rằng
chúng cùng là một Bản chất trong những hình thái xác định của Tồn tại.
Nhưng ở vào thời kỳ lịch sử sau con người đã xuất hiện ra như những tồn
tại mang tính quy định cho riêng mình: Một lực lượng tách rời, độc lập,
hiện hữu bên cạnh thế giới. Tuy nhiên trong thời kỳ này tính độc lập của
nó mới chỉ đạt tới trình độ đặc thù. Tính chưa phổ biến của tồn tại
người thể hiện ở hai mặt. Một là, bên cạnh tầng lớp quý tộc, tầng lớp
thị dân và nông dân tự do còn có một giai cấp cơ bản ở vào địa vị nô lệ,
hoàn cảnh sống, số phận của họ hoàn toàn phụ thuộc vào giới quý tộc.
Mặt khác trong nhiều hoạt động sản xuất cải tạo tự nhiên nó mới chỉ thực
hiện được bằng những công cụ thủ công, cơ bắp và sức kéo của gia súc.
Công cụ đơn giản và kỹ thuật canh tác nghèo nàn (chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm, tập quán và phong tục) cứ lặp đi lặp lại như vậy hàng ngàn năm.
Sự thất thu của mùa màng, bệnh dịch và thiên tai vẫn hoành hành đe doạ
sự sống của con người. Ơn trời, nhờ trời là tâm lý phổ biến của con
người thời kỳ phong kiến. Trong các quan hệ xã hội, gia đình, con người
còn bị lệ thuộc nhiều vào chế độ gia trưởng: Lớp trẻ phụ thuộc vào người
già, người dưới phụ thuộc vào bề trên và tất cả đều là thần dân của
vua. Sự phụ thuộc này còn được nâng lên thành các giá trị đạo đức: con
nghe lời cha; vợ chung thủy với chồng; bề tôi trung với vua; kẻ sỹ học
và làm theo đạo của bậc thánh hiền ... được coi là chuẩn mực của đạo làm
người.
Từ thế kỷ 18 trở đi, thế giới như có sự thay đổi về chất. Sự phát triển
mạnh mẽ của các ngành khoa học tự nhiên theo hướng thực nghiệm đã làm
cho con người hiểu biết ngày càng nhiều hơn, phong phú hơn các tính chất
và quy định của thế giới như các quy luật vận động cơ học, điện, cảm
ứng điện từ, tính chất của ánh sáng, các tính chất, phản ứng hoá học của
các chất cho đến sự tồn tại của các giống loài.
Nhờ những phát hiện này về mặt lý thuyết mà quá trình sản xuất luôn được
mở rộng. Đặc biệt với sự ra đời của máy động lực và máy công cụ, thế
giới bước vào cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất, giới tự nhiên từ
trên rừng, trong lòng đất cho đến những khoảng không bao la đều được con
người tìm hiểu, khai thác và chiếm đoạt với một khối lượng khổng lồ
chưa từng có (như chúng ta đã nói ở phần I).
Từ những điều trình bày trên có thể thấy rằng Hiện tượng thế giới không
chỉ ngày càng đạt được tính độc lập mạnh mẽ mà nó còn mang vào trong
mình sự phong phú của tính Bản chất: lĩnh vực Bản chất bị “hút”, bị “tát cạn” nhiều hơn vào Hiện tượng.
Nhờ kết quả này, con người từ thế kỷ 19 đến nay xuất hiện như một lực
lượng độc lập, bên ngoài. Còn giới tự nhiên như một khách thể, một nguồn
của cải vô hạn trong sự khai thác, sự chiếm đoạt, cải biến của nó.
Trong xã hội, tầng lớp những người nô lệ, nô tỳ bị xoá bỏ hoàn toàn;
không còn tầng lớp những nông nô bị ràng buộc vào các chúa đất, những
nông dân phụ thuộc vào đất công làng xã. Mối quan hệ ruột rà máu mủ, ơn
huệ, quan hệ trên dưới, quân - thần cùng với hàng trăm xiềng xích khác
của chủ nghĩa phong kiến bị tuyên án. Quan hệ trực tiếp giữa người và
người trong gia đình, làng xóm, bằng hữu, nghề nghiệp giờ được thực hiện
phần lớn là gián tiếp thông qua quan hệ hàng - tiền.
Con người đã tự do: tự do chiếm đoạt, mua bán tài sản; tự do sở
hữu tư nhân các tư liệu sản xuất; tự do mua bán sức lao động. Và hơn
thế, y không còn bị ràng buộc vào những tín điều, những hệ tư tưởng. Y
được tự do trong việc tìm kiếm niềm tin, những giá trị, những quan điểm
sống, cách sống mà trước đó y có được phải nhờ vào sự ban ơn .Y không
phải là những chủ thể, chủ nhân của quá trình lịch sử. Tự do giờ đã trở
thành nhu cầu như cơm ăn, như nước uống. Và nhu cầu ấy đã được ghi nhận
vào trong Hiến pháp như những quyền sống cơ bản của con người (dĩ nhiên
khả năng và thực tế thực hiện cuộc sống tự lập, tự do này không phải là
đồng đều như nhau với tất cả mọi người ở mọi nơi trong xã hội và trên
thế giới. Còn rất nhiều những người lao động bị lợi dụng; cũng như việc
còn nhiều quốc gia lạc hậu, nghèo đói bị chủ nghĩa thực dân đô hộ, áp
bức mà đến tận nửa cuối thế kỷ 20 mới giành được tự do, thoát khỏi sự
thống trị của nó hay nhiều dân tộc lại trở thành nô lệ kiểu mới cho giới
cầm quyền đồng tộc. Tuy nhiên, tất cả những điều đó, không làm mất đi ý
nghĩa con người như một Tồn tại độc lập, tự do thực hiện khả năng chiếm
hữu tư nhân trước thế giới mà những thiên niên kỷ trước đó nó không có
được trong sự phân tích của chúng tôi).
Nhờ mang hiện tượng thế giới diễn ra trong sự phân đôi giữa Bản chất và
Hiện tượng ngày càng mạnh mẽ mà con người có được năng lực tách mình ra
khỏi thế giới và người khác như một lực lượng độc lập, một thế giới độc
lập. Quan hệ giữa con người và thế giới cũng như giữa nó với người khác
không phải là giữa các bộ phận của thế giới với nhau cũng như cái bộ
phận với cái tổng thể. Mà đây là quan hệ cướp đoạt, chiếm hữu, lừa đảo,
tiêu diệt lẫn nhau, hoặc đối thoại, trao đổi ngang nhau giữa các tồn tại
riêng biệt, hiện thực riêng biệt nhằm duy trì sự tồn tại lớn mạnh của
chính mình. Con người hiện đại, có thể nói, đó là một tồn tại xuất phát
từ bản thân và hồi quy vào chính mình.
Tính độc lập tách rời của con người trước thế giới ngày nay càng lớn bao
nhiêu thì sự cạnh tranh giữa nó với nhau càng khốc liệt bấy nhiêu. Cuộc
sống của nó có thể như tất cả được đặt vào các quyết định của chính
mình. Cuộc sống của nó nghèo nàn, không anh em, không bạn bè thân thích,
không vợ con có thể đem lại trong nó cảm giác yếu đuối, bất an, cô độc
và trống rỗng; sự mất mát, sự thất bại nhiều lần có thể dẫn Y đến với sự
đau khổ, tuyệt vọng và cái chết. Đối xử với nhau như các phương tiện,
sự mưu mô và tàn nhẫn sẽ đem lại trong Y kinh nghiệm và những thủ đoạn
sống; sự ổn định, sự tăng tiến trong nghề nghiệp, trong nấc thang địa vị
xã hội sẽ đem lại trong Y sự yên tâm và những lời nói tốt đẹp trước đám
đông.
Nói tóm lại cái tồn tại của Y, cuộc sống của Y là vợ con, nhà cửa, tiền
bạc, đất đai và các phương tiện sinh hoạt, công cụ sản xuất cùng các
quan hệ xã hội, nghề nghiệp và địa vị đã được Y sở hữu riêng như
thế, tách riêng ra như thế sẽ được tự biểu lộ trong suy nghĩ, những ước
mơ, trong những quan niệm và thái độ của Y đối với cuộc sống.
Nếu chúng ta đã hiểu rằng thế giới là một bản chất bởi là chỗ Tồn tại tự
biểu lộ mình ra ở cảm giác và ở những suy nghĩ, thì rõ ràng mỗi một tồn
tại người, trong sự phân tích của chúng ta, nó cũng là những bản chất:
vì mình - cho mình. Khác với hòn đá, cái cây, con vật, mặt trời, mặt
trăng- chúng chỉ là những bộ phận của Thực- Tồn- Bản chất, chưa bao giờ
với tính cách đó, chúng là một Bản chất, có bản chất, bản ngã và cũng
chưa lúc nào ở trong chúng có một sự tồn tại độc lập, riêng rẽ. Con
người là một bản chất, một thực tại hữu hạn, riêng biệt bên cạnh Tồn
tại. Ta gọi đó là những hữu thể.
Dĩ nhiên trước đó Y cũng là một bộ phận của bản chất, do Tồn tại sinh
ra, quy định. Nhưng khi Y đã trưởng thành và tồn tại với tư cách là một
hữu thể. Y không bị lệ thuộc, không bị trói chặt vào cái Bản chất
(nguyên sinh) như một định mệnh nghiệt ngã.
Xã hội hiện thời (xã hội Việt Nam hôm nay) đang tạo ra nhiều chính sách,
cơ chế và điều kiện sản xuất, thuận lợi hơn so với trước đây, cho đời
sống hữu thể vươn lên thể hiện tài năng, nội lực trong sự phát triển bản
chất và nhân cách của nó trong nền kinh tế đa thành phần sở hữu. Hữu
thể, nghĩa là bản chất, bản ngã được tạo ra trước hết từ qui luật phân
đôi của Tồn Tại, và đặc biệt hơn được làm mới bởi ý chí, bởi quyết tâm
và khát vọng trong đời của nó. Nhiều cuộc đời nghèo khó đã được thay
đổi nhờ vào thời cơ và những nỗ lực của nó. Nhưng cũng nhiều hữu thể đã
xoá bỏ bản chất của mình chỉ vì những ham muốn quá độ, hoặc tầm thường
không vượt qua được, chỉ vì đem đặt bản chất của mình vào những quyết
định mạo hiểm nhiều rủi ro, hoặc bất chính, bất minh chỉ vì cái lợi của
mình, của nhóm mình, hoặc trong những toan tính có tính chất đỏ đen.
Hữu thể, chứ không phải con người trong hình thái cá nhân, cá thể trong
sự phân tích của chúng tôi. Bởi vì tồn tại của anh ta, trong bản chất
của anh ta có bao hàm cả vợ, con, những người thân, nhà cửa, tiền bạc,
đất đai, các tư liệu sản xuất, các quan hệ và địa vị đã được tách riêng
ra, sử dụng riêng ra như thế.
Với tính cách hữu thể, mỗi một con người là rời nhau (theo nghĩa phân
chia, tách rời. Mỗi cuộc sống xét trong cộng đồng, trong xã hội là một
sở hữu riêng với hành vi chiếm hữu, sản xuất tư nhân. Các Hữu thể có
những điểm giống nhau về cấu trúc tồn tại, nhưng không quy được về nhau
là vì thế. Đó chính là tính đa nguyên của thế giới, của Tồn Tại người).
Tha nhân và Y đó là những đối tượng chiếm hữu lẫn nhau, sử dụng nhau như
những phương tiện, hoặc tiêu diệt lẫn nhau hoặc trao đổi, hợp tác, cạnh
tranh cùng tồn tại và phát triển vì – mình và cho- mình.
Chiếm đoạt, khủng bố, ly khai (cả những bất ổn, bất định trong đời sống
hữu thể) hay tôn trọng sự tồn tại của nhau cùng liên doanh, liên kết, tự
do và bình đẳng trong quan hệ giữa các hữu thể (trong hình thái người,
cộng đồng hoặc quốc gia) là nét chủ yếu của xã hội hiện đại, của lịch sử
hiện đại. Nội dung cụ thể của các quan hệ này như thế nào, suy đến cùng
cũng là do cái xã hội hiện tồn, khu vực và thế giới bên ngoài quyết
định.
Với tư cách là con người mang hiện tượng thế giới, mỗi chúng ta chỉ là
những bộ phận không tách rời của cái toàn bộ, là biểu hiện khác nhau,
biến thể khác nhau của Tồn tại; là hình thái xác định cụ thể của cùng
một bản chất trong tư duy, trong cảm giác.(rằng chúng ta, xét theo tư
cách ấy cũng chỉ giống như cái cây, con lừa, hòn đá mà thôi-không có bản
chất, bản ngã riêng. Rằng nó chỉ là những bộ phận của cùng một Bản
chất). Nhưng kể từ khi mỗi một chúng ta được sinh ra từ trong quy luật
phân đôi của thế giới, chúng ta đã là, còn là những thực tại độc lập-
nghĩa là tôi và anh không phải là những cái riêng, những hình thái của
một bản chất. Rằng tồn tại của tôi, đời sống của tôi được tự lộ ra, tự
cảm xúc trong những nhu cầu, những khát vọng. Tôi không cần phải thông
qua (nhờ đến) cái khác, người khác, hữu thể khác tôi mới có được những
hiểu biết đó,mới nhận ra cái nhu cầu đó của mình - và luôn sáng tạo ra
bản chất của mình bằng cách hành động chiếm lấy cái bên ngoài nó (bằng
sự chiếm đoạt, cướp đoạt hoặc trao đổi) cho mình nhờ sự thôi thúc của
nhu cầu, của ước vọng cùng với những điều kiện có được của đời sống.
Trong ý nghĩa đó và chỉ trong giới hạn đó, ta nói lịch sử có yếu
tính đa nguyên. Đa nguyên đang là một “quy luật”, một phương thức chi
phối xã hội hiện đại- đó là điều không thể lẩn tránh. Chính nó đã và
đang thúc đẩy lịch sử các dân tộc hiện đại tiến lên.
Không gian và thời gian
Vì không có sự lựa chọn đúng đối tượng nghiên cứu của mình, vì những
quan niệm sai lầm về thế giới nên cũng dẫn chủ nghĩa duy vật hiện đại
tới những kiến giải lệch lạc về hình thức tồn tại của nó, về thời gian
và không gian của thế giới hiện thực.
Thời gian biểu thị quá trình nhanh, chậm của sự biến đổi của sự vật. Sự
vật trôi đi từ quá khứ- hiện tại và tương lai. Ngày, giờ, năm, tháng là
những đơn vị đo khoảng dài ngắn của thời gian.
Còn không gian là nói tới độ to nhỏ, cao thấp, khoảng cách giữa các vật.
Chúng ta phải nói ngay rằng đây là không, thời gian của vật lý học khi
nó nghiên cứu về sự vận động và biến đổi của các vật ở lĩnh vực thực tồn
Bản chất. Thế giới hiện thực, như chúng ta đã trình bày ở trên, do đó
không, thời gian của nó nhất thiết phải có mặt của ý thức hiểu như là
hiện tượng thế giới, nhờ đó Tồn Tại mới xuất hiện ra như thế này hay thế
kia, nghĩa là cái bộ phận, là những cái hữu hạn nhờ đó thế giới mới có
tính không-thời gian. Sự có mặt của ý thức cũng có nghĩa đó là sự tham
gia của đời sống thực tiễn con người.
Chúng ta hiểu thời gian nói lên sự lâu (chóng); trình tự trước - sau của
Hiện thực và chúng ta cảm nhận nó thông qua tốc biến đổi của đời sống
chúng ta cũng như đời sống xã hội. Thời gian sẽ như ngừng lại, trôi đi
chậm chạp nếu các đồ vật quanh ta, cách thức mà chúng ta sản xuất hầu
như không thay đổi từ năm này qua năm khác trong nhiều nghìn năm. Đây
cũng là nét đặc trưng của thời gian ở con người phong kiến, thời đại
phong kiến. Đó là sự kéo dài quá khứ trong hiện tại, còn tương lai như
không bao giờ hiện diện. Thời gian đối với họ sẽ không trôi theo một
hướng từ quá khứ → hiện tại → tương lai mà chỉ có như một vòng tròn: quá
khứ → hiện tại → quá khứ. Ngày nay con người hiện đại đã biết đến tương
lai trong những dự án, những kế hoạch và trong những hành động hiện
thực hóa của họ. Thời gian đã có tính tuyến tính. Đó là nét đặc trưng
của thời đại chúng ta chăng? Tuy nhiên với con người hiện đại, với không
ít cuộc đời, không ít hữu thể, thời gian với họ còn được khám phá theo
chiều cách phi tuyến tính: quá khứ bị xóa bỏ, bị lên án, bị cắt bỏ và
cần phải cắt bỏ như một gánh nặng, một sự phi lí; tương lai thì không
bao giờ đến. Cuộc sống, đó là hiện tại. Chỉ có hiện tại. Điều này đã trở
thành triết lí đời sống của họ. Sống và hưởng thụ hết mình những gì
đang có do bố mẹ đem lại, hoặc do cơ chế này đang tạo ra; hoặc hôm nay
còn đang cười nói với cuộc đời ngày mai đã bất ngờ phải vào nhà giam bóc
lịch. Một ngày mai không hề có với Y: giờ này còn đang trên đường thăm
thú, phút chốc một hiểm họa khó lường xảy đến dù Y đã được cảnh báo,
được chuẩn bị. Y đã không còn có mặt trên trần thế; những ngày qua Y
sống trong sự say sưa của chiến thắng bởi nhờ kinh doanh, nhờ quan hệ,
nhờ sức mạnh của cường quyền đã đưa Y từ một công chức hạng trung trở
thành tỉ phú: nhà cửa, đất đai, tiền bạc ùn ùn chảy đến. Một ngày kia
sàn giao dịch chứng khoán bất ngờ tụt dốc thảm hại, thị trường nhà đất
đóng băng, dân chúng nổi dậy phản ứng mạnh mẽ..., Y không bao giờ ngờ
tới. Y không còn gì cả, chỉ còn nơi trại giam, bệnh viện tâm thần, hay
cái chết chờ đợi Y. Chúng ta hiểu đó là tính dễ vỡ của thời gian ở con
người hữu thể
… Ngày, giờ, năm, tháng là những đơn vị đo của thời gian vật lý, nó
không phải là đơn vị đo của thời gian thực hiện (hay gọi là thời gian
triết học) nhưng giữa chúng không có sự tách biệt nhau. Chúng ta vẫn
dùng nó như một đại lượng ám chỉ sự trôi đi nhanh hay chậm của thời gian
hiện thực mà chúng ta sống trong đó.
Nếu thời gian biểu thị tốc độ biến đổi của hiện thực, thì không gian
biểu thị sự rộng hẹp của thế giới trong quá trình phát triển thông qua
hoạt động thực tiễn của con người và cũng như thời gian, thông qua hoạt
động đó Y sẽ cảm nhận được rõ nhất tính không gian của đời sống hiện
thực.
Như chúng ta nói ở trên, thế giới trở nên ngày một phong phú tính quy
định chính là nhờ vào những hoạt động thực tiễn của con người. Sự phát
triển phong phú của đời sống tinh thần và của các tiện nghi, đồ vật,
công cụ sản xuất và cách thức mà con người tiến hành sản xuất nói lên
không gian của thế giới này càng mở rộng và đa chiều. Con người đặt
chân tới đâu, hoạt động thực tiễn của mình vươn tới đâu thì không gian
được mở rộng tới đó. Ngược lại những hoạt động sản xuất, giao tiếp của
con người bị cản trở, bị ngăn cấm, bị chiếm đoạt, cướp đoạt vì nhiều lí
do, nhiều hoàn cảnh thì khi ấy Y cảm nhận rõ nhất những giới hạn, những
đổ vỡ, và những khoảng trống khủng khiếp có thực của không gian.
Hoạt động của con người nói chung ngày càng mở rộng trên nhiều lĩnh vực:
Hoạt động sản xuất ra đồ vật, hoạt động văn hoá, hoạt động giáo dục,
giao tiếp... tôi gọi mỗi hoạt động đó là một chiều của không gian. Con
người phải đặt mình vào các chiều không gian đó. Khi đời sống và hoạt
động của Y có thể được diễn ra, thực hiện trong các chiều kích đó: Chúng
ta bảo không gian của Y là toàn vẹn.
Con người phong kiến, xã hội phong kiến có một không gian chật hẹp, đơn chiều, ổn định, ít đổ vỡ .[i]
Không gian con người hiện đại (hữu thể) đa chiều và mở rộng nhưng lại
xuất hiện nhiều yếu tố bất ổn, bất định, ngẫu nhiên, không ngờ được,
nhiều khoảng trống xuất hiện, không gian có thể bị co hẹp lại, bị bẻ gãy
vụn ra (giống như thời gian) vào bất cứ lúc nào. Đây là nét đặc trưng
của thế giới hiện đại.○
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Phản Hồi