Minh Diện (Blog Bùi Văn Bồng)
- Ông Võ Trần Chí, nguyên Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, nói
Nguyễn Văn Linh là người “Lội ngược dòng lịch sử!”. Ông Nguyễn Văn Linh
cho rằng bản thân mình từng “Lên bờ xuống ruộng!”. Nguyễn Văn Linh còn
là người “bước lỡ nhịp” và tên tuổi ông được gắn với một khái niệm đầy
tai tiếng là “Giải pháp đỏ”.
Trong tiểu sử Nguyễn Văn Linh, ghi tên thật của ông là Nguyễn Văn Cúc
(Mười Cúc), sinh ngày 1-7-1915, tại xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh
Hưng Yên. Ngày 1-5-1930, ông bị thực dân Pháp kết án tù chung thân, đày
ra Côn Đảo.
Hình như có sự nhầm lẫn năm sinh, hoặc năm ông bị bắt đi tù, bởi điều
luật của nước Pháp không xử tù tuổi vị thành niên. Ví dụ ông Nguyễn Hữu
Đang, sinh năm 1913, hoạt động trong tổ chức Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội,
bị bắt 1930, năm 1931, khi ra tòa đã 17 tuổi, vẫn được tha bổng vì còn
vị thành niên. Nguyễn Văn Linh khi ra tòa mới 14 tuổi 10 tháng, mà bị xử
tù chung thân thì vô lý?
Trong tiểu sử của Nguyễn Văn Linh, không ghi ông học ở trường nào, trình
độ văn hóa ra sao, hầu như cả cuộc đời ông dấn thân hoạt động cách
mạng, vào tù ra tội, gắn bó với phong trào quần chúng, ở những nơi ác
liệt.
Nguyễn Văn Linh |
Từ năm 1957 đến năm 1960, Nguyễn Văn Linh đã từng làm Bí thư đặc khu ủy
Sài Gòn – Gia Định. Năm 1960, tại Đại hội Đảng lần thứ III, ông được bầu
vào Ban chấp hành Trung ương, làm Bí thư (1961-1964), rồi Phó Bí thư
Trung ương Cục miền Nam. Hình như từ những năm tháng đó, Nguyễn Văn Linh
đã “lên bờ xuống ruộng” rồi.
Ngày 10-4-1975, tại Trung ương cục miền Nam, Lê Đức Thọ, từ Hà Nội vào
công bố quyết định thành lập Bộ tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, trao
quyết định Bí thư đặc khu Sài Gòn-Gia Định cho Võ Văn Kiệt, Lê Đức Thọ
làm Phó bí thư. Nguyễn Văn Linh không còn là Phó bí thư nữa, mà chỉ phụ
trách mảng phong trào nổi dậy.
Cũng như các lần thay đổi trước, tổ chức không nêu ra lý do, và Nguyễn
Văn Linh cũng không băn khoăn, ông chấp hành sự phân công một cách bình
thản. Ông Võ Văn Kiệt và Võ Trần Chí cho rằng, đó là một trong những
phẩm chất đặc biệt của Nguyễn Văn Linh.
Năm 1976, Nguyễn Văn Linh lại được làm Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí
Minh, Võ Văn Kiệt làm Phó bí thư, kiêm Chủ tịch Ủy ban nhận dân thành
phố. Chưa đầy một năm, ngày 20-12-1976, tại Đại hội đảng Toàn quốc lần
thứ IV, Nguyễn Văn Linh được bầu tiếp vào Ủy viên Trung ương đảng, Ủy
viên Bộ chính trị, và Ban bí thư Trung ương, nhưng phải nhường chức Bí
thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh cho ông Võ Văn Kiệt, Ủy viên dự
khuyết Bộ chính trị. Nguyễn Văn Linh được phân công làm Trưởng ban Cải
tạo xã hội chủ nghĩa, Trưởng ban Dân vận Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc VN, và Chủ tịch Liên đoàn lao động Việt Nam. Ba cái ghế ấy không
thể so sánh với cái ghế Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh.
Mặc dù ở vị trí hữu danh vô thực như vậy, Nguyễn Văn Linh vẫn chưa được
yên. Ông Lê Duẩn cho rằng Nguyễn Văn Linh quá nhẹ tay trong cải tạo xã
hội chủ nghĩa, nhẽ ra phải xóa bỏ triệt để tư sản lại kêu gọi họ tự cải
tạo, hòa nhập vào xã hội mới, đem tài lực góp phần xây dựng đất nước. Có
lần Nguyễn Văn Linh nói với tôi và Đình Khuyến, Trưởng cơ quan Thường
trú Thông tấn xã Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh: “Anh Ba, cũng
như chúng tôi đã từng được những nhà tư sản Sài Gòn cưu mang trong thời
kỳ hoạt động bí mật, bây giờ biến họ thành nạn nhân sao đành!”.
Ý thức “đền ơn đáp nghĩa” của Nguyễn Văn Linh bị Đỗ Mười cho là hữu
khuynh, không “không Bôn-sê-vích”. Đã xảy ra những cuộc tranh luận căng
thẳng giữa Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt và Đỗ Mười. Nguyễn Văn Linh, Võ
Văn Kiệt bảo vệ quan điểm cải tạo từng bước, phân biệt đối tượng cụ thể,
tận dụng kinh nghiệm thương trường của giới công thương chế độ cũ, đặc
biệt đối với những người có công với cách mạng để xây dựng và phát triển
thành phố. Đỗ Mười bảo vệ quan điểm của Lê Duẩn, phải xóa sạch tư sản.
Kết quả, đầu năm 1978, Nguyễn Văn Linh mất chức Trưởng ban Cải tạo xã
hội chủ nghĩa.
Cũng trong thời gian đó, có người bới lại chuyện Nguyễn Văn Linh sang
Campuchia tháng 6-1975, đi suốt 200 km, qua ba 3 tỉnh mà không phát hiện
ra những thay đổi bất thường của Khmer đỏ, để xảy ra những biến cố bất
ngờ!
Đó là thời kỳ bĩ cực nhất của Nguyễn Văn Linh.
Ông đã xin rút ra khỏi Bộ chính trị vào cuối nhiệm kỳ.
Vốn là người hết sức trầm tĩnh, kín đáo, nhưng Nguyễn Văn Linh đã tâm sự
với Võ Trần Chí: “Bởi vì mình thấy các anh ấy không muốn mình ở đó nên
xin rút!”.
Đỗ Mười |
Đỗ Mười mang tinh thần “Bôn-sê-vích” và “bàn tay sắt” vào miền Nam đánh
tư sản. Ông ta thực hiện y trang như những gì mình từng làm ở Hải Phòng
năm 1955, Hà Nội 1960, xóa sạch tàn dư tư bản chủ nghĩa, đề xây đựng nền
kinh tế xã hội, với tham vọng 15 năm sau theo kịp Nhật Bản, như Tổng bí
thư Lê Duẩn tuyên bố ngày 2-7-1976, tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội
khóa VI.
Thực tế ngược lại hoàn toàn với tham vọng ngông cuống và siêu thực đó.
Sau cải tạo thành phố Hồ Chí Minh kiệt quệ, các nhà máy xí nghiệp không
có nguyên liệu sản xuất phải đóng cửa, hàng triệu công nhân thất nghiệp,
hệ thống giao thông vận tải ngưng trệ, lưu thông phân phối tắc nghẽn,
chợ búa gần như ngừng hoạt động, đời sống của cán bộ nhân dân cùng cực.
Tài liệu chính của Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh lúc đó công bố “Kế
hoạch năm năm không đạt, tăng trưởng âm, lạm phát phi mã, gần ba triệu
dân thành phố thiếu đói”.
Đỗ Mười đã đẩy Sài Gòn “tiến” kịp Hà Nội, biến “Hòn ngọc Viễn Đông”
thành “Hòn than bùn xó bếp” như cách nói của nhà báo Ba Dân lúc đó. Thật
mỉa mai khi các nhà khoa học nổi tiếng như Chu Phạm Ngọc Sơn, Châu Tâm
Luân, được động viên nghiên cứu những công trình khoa học như “Bo bo
giàu dinh dưỡng hơn gạo”, “Khoai lang bổ hơn bột mì”, “Thành phần đạm
trong rau muống”…
Trước kia Hà Nội có thơ “Gia công gai quy, lộn cổ sơ mi, bơm ruột bút
bi, vá ni lon rách”, bây giờ Sài Gòn cũng nổi tiếng không kém với “Nuôi
lợn trên gác, phục hồi bu gi, gia công cán mì, tái chế dép xốp!”.
Trong cái thế gần chạm đáy kiệt quệ ấy, Nguyễn Văn Linh được tái bổ
nhiệm Bí thư Thành ủy, thay Võ Văn Kiệt ra Trung ương làm Chủ nhiêm Ủy
ban Kế hoạch nhà nước.
Phải nói, nếu hơn mười năm trước Kim Ngọc, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú đã
dũng cảm tìm lối thoát cho nông dân bằng biện pháp “khoán chui”, thì
những năm 1980-1981, Nguyễn Văn Linh đã cứu công nhân và nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh bằng “xé rào” thoát ra khỏi cơ chế quan liêu bao cấp.
Hiệu quả lãnh đạo Thời kỳ đầu Đổi mới đã đưa Nguyễn Văn Linh lên tem bưu điện, nhưng rồi... |
Nguyễn Văn Linh đã tập hợp chung quanh mình một đội ngũ dám nghĩ, dám
làm, dám chịu trách nhiệm, có khả năng móc nối với tư bản nước ngoài để
phá thế bị bao vây cô lập. Những công ty Cholimex, Dereximco, Imexco lần
lượt ra đời, trực tiếp làm ăn với một số công ty Hồng Kong, Đài Loan,
như Globai, Thai Hing Long, nhập khẩu sợi dệt, xăng dầu, thuốc lá, men
bia, xuất khẩu đậu phộng, vừng, tôm khô, mực khô. Thực hiện việc trao
đổi hàng hóa, khoán sản phẩm, mua nguyên liệu bán sản phẩm v.v...
Nhờ việc xé rào này, 20.000 công nhân ngành dệt có việc làm, ngành giao
thông vận tải có xăng dầu hoạt động, và bộ mặt Sài Gòn khởi sắc trở
lại.
Cũng như “khoán chui” của Kim Ngọc, việc “xé rào” của Nguyễn Văn Linh
lọt tới “thiên đình” và cuồng phong nổi lên, bắt đầu bằng cuộc ra quân
của Bộ Tài chính.
Ngày 12-3-1982, đoàn thanh tra 28 thành viên từ Hà Nội hùng hổ tiến vào
Công ty Direximco, tuyên bố nội bất xuất, ngoại bất nhập. Hơn ba tháng
liên tục, moi móc hết 50 mặt hàng và đến từng đơn vị làm ăn với
Dereximco, kiểm tra từng tờ hóa đơn. Ngày 25-6- 1983, Đoàn thanh tra kết
luận việc xé rào của thành phố Hồ Chí Minh vi phạm nghiêm trọng chủ
trương đường lối của đảng, chính phủ, chỉ có 1 công nhưng 7 tội, cần
phải xử lý nghiêm khắc. Ông Đỗ Mười lên tiếng: “Làm bí thư Thành ủy mà để xảy ra như thế sao không từ chức!”.
May cho Nguyễn Văn Linh, lần này Lê Duẩn không vội nghe theo Đỗ Mười.
Tháng 3-1983, khi Lê Duẩn sang Liên Xô chữa bệnh, các ông Trường Chinh,
Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công vào Đà Lạt nghỉ mát. Tranh thủ điều kiện
thuận lợi, Nguyễn Văn Linh, Mai Chí Thọ và các lãnh đạo chủ chốt của
thành phố Hồ Chí Minh khéo léo tổ chức “Hội nghị Đà Lạt” thành công.
Nguyễn Văn Linh bố trí một số giám đốc nhà máy, xí nghiệp làm ăn được
nhờ xé rào như Nguyễn Thị Đồng, nhà máy dệt Thành Công, Bùi Văn Long,
Tổng công ty dệt may, Nguyễn Văn Thụy, Công ty thuốc lá, lên Đà Lạt trực
tiếp gặp ba nhà lãnh đạo đảng, nhà nước.
Tôi còn nhớ buổi sáng hôm ấy ở khách sạn Palace, ông Nguyễn Văn Linh nói với bà Nguyễn Thị Đồng và Bùi Văn Long: “Phải khéo léo thuyết phục các anh! Mời bằng được anh Năm xuống thăm cơ sở thì mới thấy hết cái việc mình làm!”.
Bà Nguyễn Thị Đồng với giọng nói rổn rảng, không biết ngán ai bao giờ,
bởi gia đình bà có tới hơn 10 người là bộ đội, thương binh, liệt sĩ. Bà
nói với ông Trường Chinh: “Anh hãy xuống nhà máy gặp công nhân, người ta vừa mới sống lại đấy. Rồi anh để họ sống thì để bóp chết thì bóp!?”
Trước thái độ cương trực của bà Đồng, ông Trường Chinh đã phải mỉm cười
gật đầu, thực hiện một chuyến đi thực tế ý nghĩa nhất, và đó là tiền đề
cho sự thay đổi tư duy, từ nền kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường
của ông.
Đại hội đảng toàn quốc lần VI, với bài diễn văn đúc kết từ thực tế “xé
rào” ở thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Linh đã nhận được sự ủng hộ của
tuyệt đại đa số đại biểu, ông trở thành Tổng bí thư của Đảng cộng sản
Việt Nam. Có lẽ đây là một trường hợp hãn hữu, một người được bầu làm
Tổng bí thư của đảng, nhận được sự đồng thuận của dân.
Sau đại hội đảng VI, Nguyễn Văn Linh đã tiến hành nhiều cải cách quan
trọng. Ông chọn khâu lưu thông phân phối làm đột phá khẩu đổi mới. Ông
nói: “Giải quyết vấn đề phân phối lưu thông vì nó là cái gốc liên
quan đến quá trình sản xuất, tới tổng thể cơ chế quản lý nền kinh tế
quốc dân”.
Những chính sách nổi bật trong thời kỳ này là: Tách tài chính ra khỏi
ngân hàng. Lập kho bạc nhà nước. Bơm tiền lưu thông. Xóa bỏ ngăn sông
cấm chợ. Lấy khoán 100 làm cơ sở khoán 10, giao quyền tự chủ cho nông
dân.
Chỉ trong một thời gian ngắn đã kéo lạm phát từ 240% xuống 61%. Từ chỗ
cả nước không đạt 21 triệu tấn lương thực, phải nhập mỗi năm 500.000 tấn
lương thực, năm 1989 đã dư 1 triệu tấn gạo.
Về đối ngoại, Nguyễn Văn Linh muốn phá thế bao vây của các nước phương
Tây và Trung Quốc. Tại hội nghị Bộ chính trị ngày 20-5-1988, đã ra Nghị
quyết 13 về điều chỉnh đường lối đối ngoại, theo hướng đa phương hóa, đa
dạng hóa, giữ môi trường hòa bình, phát triển kinh tế. Trả lời phỏng
vấn trên tờ Thời báo New York, Nguyễn Văn Linh nói về mối quan hệ với
Mỹ: “Việt Nam luôn luôn muốn có quan hệ với nhân dân và chính phủ
Mỹ. Chiến tranh kết thúc 15 năm rồi mà chưa có quan hệ bình thường là
quá chậm. Việt Nam sẵn sàng giải quyết mọi trở ngại trên con đường bình
thường hóa quan hệ với Mỹ”.
Ngoài việc đổi mới về kinh tế, và đổi mới về đối ngoại, Nguyễn Văn Linh
còn đổi mới về văn hóa xã hội, dân sinh, dân chủ. Chủ trương cởi trói
cho văn nghệ sĩ nói riêng, trí thức nói chung, ông đã vén bức màn đen
tối, minh oan cho những nạn nhân bị oan ức, đọa đày trong vụ “Nhân văn giai phẩm” và đã khích lệ giới cầm bút viết những tác phẩm chân thực.
Ngày 25- 5-1987, Nguyễn Văn Linh cho ra đời mục “Những việc cần làm ngay” trên báo Nhân dân, từ đó những bài viết của ông ký bút danh NVL liên tục xuất hiện trên mặt báo. Ông nói: “Chống
tiêu cực là đã thành nhiệm vụ quan trọng, dọn đường cho việc thực hiện
Nghị quyết đại hội VI, và các Nghị quyết của đảng, nhằm đưa nước nhà ra
khỏi khó khăn đến ổn định tình hình mọi mặt, làm dân bớt khổ”. Ông yêu cầu: “Nhà báo phải có tấm lòng cương trực, yêu người làm đúng, làm tốt để ca ngợi, ghét kẻ làm xấu để lên án”. Nguyễn Văn Linh xác định lấy báo chí làm vũ khí, nhà báo là lực lượng nòng cốt chống tiêu cực tham nhũng. Ông nói “đánh
giặc ngoại xâm chủ yếu bằng súng đạn, đánh giặc nội xâm phải dùng vũ
khí ngôn luận. Báo chí là sức mạnh, là thứ bọn tiêu cực sợ nhất!”,
Nguyễn Văn Linh chỉ thị tất cả các cơ quan đảng, chính quyền phải trả
lời chất vấn của báo chí, phải xử thật nghiêm những trường hợp tham
nhũng, ăn hối lộ, ức hiếp dân mà báo chí đã nêu. Nhiều vụ án tưởng đã
chìm vào quên lãng đã được đưa ra xét xử.
Ông thường xuyên gặp gỡ anh em làm báo, ngoài hành lang các hội nghị,
hoặc kêu tới nhà ông uống cà phê, ăn sáng nói chuyện. Ông không phân
biệt báo lớn, báo nhỏ, báo đảng báo đoàn thể, nhưng rất coi trọng những
nhà báo viết bài trung thực, có sức lan tỏa. Khi gặp chúng tôi, ông
thường hỏi: “Dân đang nghĩ gì, đang làm gì, và cần gì?”. Khi chúng tôi nói cho ông nghe những bức xúc của dân ông hỏi: “Nếu dân nghĩ vậy thì mình làm sao?”.
Nguyễn Văn Linh tỏ thái độ đồng tình với Trần Xuân Bách về cơ chế dân
chủ và đổi mới chính trị. Có lần ông nói với anh em báo chí: “Anh
Trần Xuân Bách nói rất đúng. Dân chủ không phải là ban ơn, là mở rộng
dân chủ, mà đó là quyền của dân với tư cách người làm chủ lịch sử, không
phải là ban phát, do tấm lòng của người lãnh đạo này hay người lãnh đạo
kia. Dân chủ là khởi động trí tuệ dân để tháo gỡ khó khăn đưa đất nước
theo kịp thời đại!”.
Nửa đầu của nhiệm kỳ Tổng bí thư, Nguyễn Văn Linh là một con người như
vậy. Đất nước đổi mới từng ngày, nhà cửa mọc lên khang trang, nụ cười
xuất hiện trên môi người, Việt kiều về quê rất đông, và hầu như không có
những vụ khiếu kiện tập thể... Đại hội VI của đảng cộng sản Việt Nam
xóa quan liêu bao cấp, thực hiện đổi mới và mở rộng quan hệ đối ngoại,
nhất là với Mỹ và phương Tây, đã làm Trung Quốc rất khó chịu, tìm cách
phá ngang.
Gần cuối nhiệm kỳ, Nguyễn Văn Linh bị Trung Quốc cài bẫy. Trong bài này,
sự tác động do Liên Xô, Đông Âu sụp đổ và vai trò của Đỗ Mười thế nào
chưa bàn đến. Nhưng đó là nguyên nhân chính đã làm cho Nguyễn Văn Linh
thay đổi hẳn quan điểm, dẫn tới dân-nước và bạn bè quốc tế bị bất ngờ và
thất vọng.
Có thể nói cái mốc ấy bắt đầu từ Hội nghị Thành Đô, Trung Quốc từ 3 đến
5-1990 đến bây giờ, dù những người tư liệu còn hạn chế, nhưng nhìn lại
một cách khách quan, vẫn vừa tiếc, vừa buồn, vừa trách Nguyễn Văn Linh.
Với Hội nghị Thành Đô, Việt Nam như bị Trung Quốc... nướng
Theo ông Trần Quang Cơ, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, ngày 29-8-1990,
đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy, gặp Nguyễn Văn Linh ở Hà Nội, chuyển
thông điệp của Giang Trạch Dân, Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc, và
Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc, mời Nguyễn Văn Linh, Đỗ
Mười, Phạm Văn Đồng sang Thành Đô (tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc) ngày
30-8-1990 để hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường
hòa quan hệ hai nước.
Trương Đức Duy nói mập mờ rằng, Đặng Tiểu Bình có thể gặp Phạm Văn Đồng,
và lấy cớ Bắc Kinh đang tổ chức Á vận hội ASIAD, sợ lộ bí mật nên phải
gặp nhau ở Thành Đô.
Đây là chuyện rất đột ngột, bởi mới 5 ngày trước, Trung Quốc khăng khăng
không muốn bàn chuyện bình thường hóa, mà đòi phải giải quyết vấn đề
Campuchia trước, tại sao bây giờ họ lại bàn vấn đề bình thường hóa?
Ông Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Ngoại giao nhận định: Sự thay đổi đột
ngột của Trung Quốc là do họ cần thực hiện 4 hiện đại hóa, nhưng bị Mỹ,
Nhật, Liên Xô và các nước cấm vận sau vụ đàn áp Thiên An Môn, nên phải
tìm cách thoát ra.
Bên cạnh đó, Trung Quốc thấy Mỹ, Nhật, đặc biệt là các nước trong khối
ASEAN, tỏ thái độ thân thiện với Việt Nam, nên muốn phá ta.
Quan điểm của Nguyễn Văn Linh lại khác.
Ông triệu tập họp Bộ chính trị và nếu ý kiến: “Tranh thủ Trung Quốc, hợp tác với Trung Quốc, để bảo vệ Xã hội chủ nghĩa” (!?).
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, đặc biệt là Rumani mà Nguyễn
Văn Linh vừa thăm đã tác động rất lớn tới ông, lảm cho ông mất bình
tĩnh.
Mặc dù Nguyễn Cơ Thạch, Võ Chí Công, Trần Xuân Bách can ngăn, nhưng
Nguyễn Văn Linh không nghe, vẫn giữ quan điểm: “Hợp tác với Trung Quốc,
bảo vệ XHCN chống đế quốc!”. Quan điểm của Nguyễn Văn Linh được Lê Đức
Anh, Đỗ Mười, Đào Duy Tùng... ủng hộ.
Và thế là, ngày 2-9-1990, dù đang kỷ niệm Quốc khánh lần thứ 45 năm,
Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng vẫn đi Thành Đô, với sự tháp
tùng của Hồng Hà, Chánh văn phòng Trung ương đảng và Hoàng Bích Sơn, Thứ
trưởng ngoại giao. Nguyễn Văn Linh không cho Nguyễn Cơ Thạch đi, vì
Nguyễn Cơ Thạch không đồng quan điểm, Trung Quốc không thích Nguyễn Cơ
Thạch.
Theo Trần Quang Cơ, Trung Quốc đã đánh lừa Việt Nam một cách trắng trợn.
Họ nói Đặng Tiểu Bình sẽ gặp Phạm Văn Đồng nhưng Đặng không xuất hiện.
Ông Võ Văn Kiệt nói: “Nhẽ ra anh Tô không nên đi!”. Mà Đặng Tiểu
Bình là gì mà chính Phạm Văn Đồng cũng muốn gặp để rồi bị dính chùm
trong vụ tham dự Hội nghị Thành Đô? Từ đó Trung Quốc thêm vinh danh và
đạt được ý đồ thâm hiểm lâu dài là kìm hãm, phá ngang đường lối đổi mới
và kéo Việt Nam đi theo quỹ đạo của Trung Quốc. Cũng từ quan điểm đưa ra
đầy thỏa hiệp Trung-Việt này mà cái 'bào thai' đẻ ra con ngáo ộp “Diễn
biến hòa bình” và sau này củ cà rốt đỏ chót “16 chữ vàng”, “4 tốt” trở
thành vòng kim cô thít chặt Việt Nam...
Vấn đề Campuchia, Trung Quốc vẫn giữ thái độ như ngày 24-8-1990, đòi cấu
trúc thành phần chính phủ hòa hợp dân tộc Campuchia theo công thức:
6+2+2+2+1 (6 người phe chính phủ Hun sen, 2 người phe Khmer đỏ, 2 người
phe Hoàng gia, 2 người phe đảng dân chủ, và Sihanouk). Điều này hoàn
toàn trái với công thức: 6+2 +2 +2 mà Hun Sen và Siha Nouk đã thỏa thuận
tại Tokyo.
Ông Trần Quang Cơ viết: “Hội nghị Thành Đô có 8 điểm, hai điểm về quốc
tế, 5 điểm về Campuchia, chỉ có một điểm về Việt Nam. Nguyễn Văn Linh
nêu ‘Giải pháp Đỏ’, Trung Quốc hoan nghênh nhưng không mặn mà!”.
Cái gọi là “Giải pháp Đỏ” của Nguyễn Văn Linh là “Kéo Trung Quốc lại, thay thế Liên Xô, làm chỗ dựa vững chắc bảo vệ phe Xã hội chủ nghĩa!”.
Nguyễn Văn Linh mê muội phe chủ nghĩa xã hội, tìm mọi cách bảo vệ phe
xã hội chủ nghĩa, quên quyền lợi và danh dự của dân tộc mình và làm mất
niềm tin của bạn bè!
Khi Trung Quốc đưa công thức 6+2+2+2+2+1 ra, ông Phạm Văn Đồng nhắc
Nguyễn Văn Linh thận trọng. Phía Trung Quốc liền mời Phạm Văn Đồng ra
chỗ khác để Nguyễn Văn Linh ký. Ông Phạm Văn Đồng đã thấy nguy, nhắc
Nguyễn Văn Linh sửa sai, nhưng Nguyễn Văn Linh nói: “Không sao đâu!”.
Từ Thành Đô về, Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh sang Campuchia gặp
Hengsomrin và Hunsen trao đổi về Hội nghị Thành Đô. Nhưng Campuchia
không chấp nhận công thức ấy và nói thẳng Việt Nam, Trung Quốc không có
quyền can thiệp vào Campuchia. Xương máu của hàng ngàn cán bộ chiến sĩ
quân đội ta đổ trên chiến trường Campuchia đã bị Nguyễn Văn Linh bán rẻ
cho Trung Quốc!
Trung Quốc nói giữ bí mật Hội nghị Thành Đô nhưng chính họ thông báo cho
thế giới biết toàn bộ nội dung cuộc “họp bí mật” đó. Tờ Bangkok Post và
tờ Tạp chí kinh tế Viễn Đông, ngày 4-10-1990, đăng bài bình luận “Củ cà
rốt và chiếc gậy” nói Việt Nam đã nhượng bộ nhiều hơn làm vừa lòng
Trung Quốc.
Nguyễn Văn Linh đã thất bại trong sách lược “Giải pháp Đỏ”, bị Trung
Quốc tách ra khỏi các mối quan hệ với phương Tây với nhiều mở hướng tốt
đẹp cho sự nghiệp đổi mới, chỉ vì nghe Trung Quốc xúi cho bùi tai là làm
thành trì bảo vệ Xã hội chủ nghĩa. Nói đúng hơn Nguyễn Văn Linh đã bị
Trung Quốc lừa một vố đau.
Theo ông Trần Quang Cơ: “Sở dĩ ta bị mắc lừa ở Thành Đô vì chính ta
lừa ta! Ta ảo tưởng Trung Quốc giương cao ngọn cờ Xã hội chủ nghĩa, thay
thế Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và XHCN thế
giới, chống lại hiểm họa “Diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc do
Mỹ đứng đầu. Sai lầm đó đã dẫn đến sai lầm Thành Đô cũng như sai lầm
“Giải pháp Đỏ”.
Ông Nguyễn Cơ Thạch nói: “Trung Quốc đã sử dụng Hội nghị Thành Đô để
phá mối quan hệ Việt Nam với các nước, chia rẽ nội bộ ta, kéo lùi tiến
trình đổi mới của ta!”
Phạm Văn Đồng tỏ ra ân hận vì không ngăn được Nguyễn Văn Linh ký thỏa
thuận Thành Đô. Nguyễn Văn Linh tránh trớ: “Anh Tô nhớ lại xem! Không
phải tôi đồng ý. Tôi chỉ nói nghiên cứu xem xét và bây giờ tôi vẫn nghĩ
thế là đúng”.
Cái gọi là “đúng” của Nguyễn Văn Linh là từ luận điểm câu nhử, đe dọa
của Trung Quốc: “Âm mưu đế quốc Mỹ chống phá xã hội chủ nghĩa ở châu Á,
cả Cu Ba. Nó đã phá Trung Quốc trong vụ Thiên An Môn rồi, nay chuyển
sang phá ta!”. Và, không hiểu Trung Quốc làm cách nào mà nó như thứ bùa
mê thuốc lú để Nguyễn Văn Linh lý giải: “Dù Trung Quốc bành trướng thế
nào thì Trung Quốc vẫn là một nước Xã hội chủ nghĩa!”.
Từ Hội nghị Thành Đô trở về hình như Nguyễn Văn Linh là một con người khác. Ngày 28-8-1990, tuyên bố chấm dứt “Những việc cần làm ngay”. Ông nói “Bận quá! Vả lại tôi viết để “mồi” cho các nhà báo viết tiếp để đấu tranh kiên quyết liên tục!”. Ông còn viết: Không nên đi xe ngoại, rằng: “Ta về ta tắm ao ta”...
Đó là một lời nói dối, bởi sợi dây trói vừa được cởi ra trong khoảng
thời gian 3 năm 4 tháng đã bị thít lại chặt hơn, và chính ông là người
đầu tiên đã liên kết với Đào Duy Tùng, Nguyễn Hà Phan, Đỗ Mười đánh dập
vùi Trần Xuân Bách, một người được coi là có trí tuệ nhất trong Bộ chính
trị lúc đó.
Nguyễn Văn Linh đã đưa Việt Nam tiến lên một bước, nhưng rồi chính ông
lại kéo Việt Nam lùi lại, ông mở cái cửa nhỏ thoát ra khỏi một ngõ cụt
nhưng rồi chính ông lại đóng sập cánh cửa ra biển lớn của dân tộc vì ý
thức bảo thủ và giáo điều của ông!
Nguyễn Văn Linh đã tự lội xuống ruộng, đúng hơn tự dìm mình vào vũng bùn
Thành Đô, và để mất sự kính trọng nhẽ ra ông được hưởng.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Phản Hồi