Đối với thế giới, uy tín của chính quyền cộng sản Việt Nam đã mất từ lâu, mất một phần khi xảy ra cuộc chiếm đóng Cambodia, mất toàn phần khi làn sóng thuyền nhân tràn lên các đại dương và xác chết của họ trôi khắp bãi bờ các quốc gia khác.
Với
dân chúng trong nước, giờ đây họ thôi là nhà cầm quyền vĩ đại. Bởi sự thoát đồng
đã xảy ra từ rất lâu, họ thôi là thượng đế và dân chúng thôi là những con nộm bị
điều khiển bằng thứ tôn giáo do kẻ cầm quyền sáng tác.
Dân chúng đã nhìn rõ bản mặt của họ: những con vật đi bằng hai
chân, những con vật tham tàn, những con vật đang run sợ vì sự tham tàn của chúng
không còn được bóng tối che đậy.
Nhà cầm quyền Hà Nội lúc này chỉ còn tin vào nòng súng. Nhưng bất
kì kẻ cầm súng nào cũng có lúc chết vì chính thứ vũ khí mà họ sử dụng. Bởi vì,
chẳng có thứ vũ khí nào tự động nhả đạn. Vũ khí nào cũng cần bàn tay của con
người, dù là bàn tay bấm nút chiến tranh hạt nhân hay bàn tay cầm dao găm, súng
lục. Khi con người đã nhìn rõ sự
thật, khi họ không còn bị huyễn
hoặc bởi các trò mị dân, khi họ hiểu họ là ai và họ có thể làm chủ số phận của
họ bằng cách nào, lúc ấy, các nòng
súng sẽ đổi hướng.
Tiếng
nhạc ầm ĩ trong ngày hội “Ngàn năm Thăng Long” hẳn đã át đi tiếng nức nở của
trên năm mươi gia đình nạn nhân chết vì bão lụt ở miền Trung. Các quan chức Hà
Nội không bỏ ra một nửa giây để tưởng niệm những kẻ xấu số. Họ quên. Cũng như họ
đã từng quên những người dân đánh cá tỉnh Thanh bị giặc Tầu giết ngoài khơi, như
họ quên các chiến sĩ đã bỏ mình trên biên giới vào cuộc chiến tranh năm 1979. .
.
Họ quên và họ quên. Vậy họ nhớ điều gì?
Khi con gái họ có nhu cầu mua một chiếc váy cưới xấp xỉ 200. 000
euros tại đại lộ Champs Elysées thì họ phải nghĩ cách làm đầy thêm các ngân
khoản ở ngân hàng ngoại quốc. Khi nhân tình của họ cần chiếc xe hơi sang trọng
như xe của cô Hồ Thu Hồng thì họ phải nghĩ cách để kiếm cho bằng được chiếc xe
ấy, để nàng khỏi tủi thân vì kém chị kém em. Khi ngôi lầu của họ chỉ đáng giá
hai triệu đô la mà của kẻ khác giá gấp đôi thì họ phải tìm cách đuổi kịp và vượt
hắn. Đó là mối quan tâm cốt lõi của giai cấp tư sản đỏ Việt Nam giờ đây, cái
guồng quay cũ kĩ của đám mới giầu.
Ai
đó từng nói câu này: “Trong giai đoạn tích luỹ tư bản, giai cấp tư sản có thể
giết chết cha đẻ của họ để có tiền”.
Giai cấp tư sản đỏ Việt Nam cũng có chung một trạng thái tâm lý
đó: khát tiền, làm mọi thứ để có tiền, bất kể phương tiện nào, dù đó là tội
ác. Nhưng tư sản đỏ Việt Nam không
cần giết bố, bởi họ có một đối tượng khác dễ giết hơn nhiều: dân đen. Họ không cần đốn ngã kẻ sinh thành bởi có
thể hút máu dân đen một cách thoả thuê, vừa thoả mãn cơn khát tiền lại vừa yên
ổn lương tâm vì không mắc tội giết cha.
Lấy ví dụ về tập đoàn Vinashin. Mua một vỏ tầu cũ nát,
đáy nứt, không thể vận hành, lấy sơn quét lên rồi rút hàng triệu đô la trong
công quỹ. Hàng triệu đô la ấy quan lớn bỏ túi, còn con tầu “bãi rác” sơn bóng
loáng kia được đặt trên đất liền để làm “hiện vật bảo
tàng”.
Nghe tưởng như chuyện đùa. Nghe như tiếu lâm. Thứ tiếu lâm cười ra
nước mắt. Chỉ có ở Việt Nam , nơi kẻ cầm quyền coi dân là lũ trâu bò,
mới dám làm điều ngang ngược đó. Chỉ
có ở xứ Việt Nam, khi tất cả các cuộc kí kết, thương thuyết của chính phủ
đều diễn ra trong bóng đêm và dân chúng không được quyền biết đến mới có thể xảy
ra hiện tượng này.
Lấy ví dụ thứ hai: các vụ buôn người. Dưới
chế độ độc đảng, độc tài, ai có thể làm được điều này nếu không là chính các
thành viên trong chế độ ấy. Tại sao lại buôn người? Vì buôn người thu lời nhanh
nhất, mà vốn đầu tư coi như zero nếu có quyền hành. Cho nên, buôn người là nghề mới của đảng cộng sản
Việt Nam , đảng thừa thãi quyền
hành vì không có đối trọng.
Đã là lái buôn, ắt phải tham. Lòng tham mà không bị điều tiết bởi
các điều luật thì nó sẽ phát triển vô cùng tận. Do đó, món hàng hoá có tên gọi
là “dân đen”của các quan chức Việt Nam sẽ được khai thác tối đa để làm đầy túi các
bậc trị vì dân. Khi đã coi dân chúng là hàng hoá, ắt người cộng sản phải tìm
mọi cách để đám dân đen trở thành vật vô tri, tức là các công cụ, thứ công cụ
này có chức năng sản xuất nhưng phải câm và phải điếc. Khi mà các công cụ dân đen không chịu nổi
đàn áp, buộc mở mồm thì lập tức họ có cách để bắt nó phải câm. Vũ khí đó có tên gọi “chuyên chính”, bộ máy
đàn áp trứ danh lâu nay.
Hãy
đọc báo Công an nhân dân đưa tin về vụ xử ba thanh niên sáng lập công đoàn Tự do
ngày 27 tháng 10 năm nay:
“Được Trần Ngọc Thành, kẻ cầm đầu Uỷ ban bảo vệ người lao động
Việt Nam đưa Hùng, Hạnh sang Malaysia đào tạo, huấn luyện, rồi từ ngày 28/1 đến
ngày 9/2/10, Trần Ngọc Thành đã chỉ đạo Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh
Hạnh, Đoàn Huy Chương thực hiện các vụ kích động biểu tình, rải truyền đơn ở Trà
Vinh, Đồng Nai, Tp HCM, nội dung kêu gọi người dân chống lại Đảng, Nhà nước, kêu
gọi đấu tranh để đòi dân chủ; lợi dụng các vấn đề còn thiếu sót trong chế độ lao
động, tiền lương của công nhân ở một số khu công nghiệp để tổ chức tuyên truyền,
kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản
của doanh nghiệp. . .”
Thứ nhất, tác giả bài báo này quên rằng “Kích động công nhân đình công,
biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp” là đích xác
các hành động của người cộng sản Việt Nam những năm trước cách mạng. Các hành
động này cũng đã từng xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới, khi giai cấp lao
động không chịu nổi sự áp bức và bóc lột của đám chủ nhân. Các phản ứng tiêu cực
này chỉ xảy ra khi sự thoả thuận giữa người làm công với kẻ trả công bị vi phạm
và cuộc sống của người lao động bị đe doạ.
Phải chăng tác giả bài báo này cho rằng chỉ riêng đảng cộng sản vĩ
đại của ông ta là được quyền sử dụng chiêu thức ấy còn những người khác thì bị
cấm vì họ không được là người mà chỉ là thứ phẩm của người, tức “dưới người”,
nói cách khác: “người vượn
Néandertal”?
Thứ hai, câu “lợi dụng các vấn đề
thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân. . . ” chỉ là lối mỹ
từ hoá sự vật. Nói một cách xác thực và dân giã, hiện nay các quan lớn cộng sản
Việt Nam đang thực thi chính sách “bòn nơi khố quạnh, đãi nơi quần hồng”.
Tại
sao lại “bòn nơi khố
quạnh”? Vì ngu, vì tham, vì trước
ngoại nhân thì dốt nát và khiếp nhược nên các quan lớn chỉ có lối kiếm tiền dễ
nhất là bóc lột đồng bào mình, những người không có phương tiện để tự bảo vệ,
những kẻ bị hà hiếp, bị tê liệt cùng một lần vì đói nghèo và
sợhãi.
Tại sao lại “đãi nơi quần hồng”? Vì người cộng sản lúc này thôi còn là cộng
sản, họ đã trở thành đám tư sản dù vẫn giữ vẻ mặt ngô nghê và bộ điệu lố bịch
của kẻ cách đây chưa lâu còn lo le sợi dây giong lợn giống hoặc lúc lắc cái ống
bơ đựng xu lẻ ăn mày. Khi đã đổi vai thì họ phải bám vào cái giai cấp tương lai
của họ, giai cấp mới này chính là đám quần hồng, thế nên họ phải đãi đám quần
hồng để còn kiếm chác phần đường mật trong đũng cái quần hồng ấy.
Sự thật đơn giản, nếu người ta nhìn thẳng vào
nó.
Đám
cầm quyền hôm nay đã rơi từ đỉnh cao của sự “kiêu ngạo cộng sản” xuống vũng bùn
của“các con lợn truỵ lạc phương Tây” mà trước đây họ thường sa sả chửi rủa, họ
đang sống xả láng trong cảnh phồn vinh mà trước đây họ mỏi mồm lên án. Nói tóm lại, họ đang là thứ “khỉ khoác
quần áo”, thứ “nhặt cái đuôi của bọn tiểu tư sản cắm vào lỗ mồm” như ông tổ hói đầu Lenin của họ từng
cảnh báo trước đây.
Trong cuộc sống tối tăm, nhục nhằn của người nô lệ, các anh hùng
đánh đuổi ngoại xâm chính là các bậc thánh sống, được tôn trọng, thần phục,
ngưỡng mộ, và có toàn quyền trở thành các nhà sáng lập triều đình.
Nhìn
lại lịch sử, ta dễ dàng chiêm nghiệm điều đó. Phải chăng triều Lý, triều Trần,
triều Lê, triều Tây Sơn Nguyễn Huệ đều được khởi dựng sau các chiến thắng lẫy
lừng chống kẻ xâm lăng? Ngoại trừ Đinh Bộ Lĩnh là viên tướng phất cờ khởi nghĩa
dẹp loạn sứ quân, thống nhất đất nước, nói một cách dễ hiểu là viên tướng duy
nhất xây dựng triều đình khi chiến thắng các cuộc nội chiến phân quyền, còn lại,
những gương mặt sáng chói trong lịch sử đất Việt đều là những anhhùng chống Tầu
và chống Nguyên – Mông. Các triều vua này từng tuyên bố “Sông núi nước Nam vua
Nam ở”.
Và cuộc sống mái của họ là giành mục đích người Việt Nam là người
Việt Nam, dẫu áo vải quần thâm nhưng đàn ông nhất quyết không cạo trọc, tết sam
như gã A. Q, đàn bà không bó chân như các mợ Tầu.
Tuân theo logic ấy, triều cộng sản được hình thành là nhờ nó có
công trong cuộc cách mạng chống giặc Tây. Và người ta còn khoan dung cho nó là
vì tính đến cái công ấy, cái công “dành độc lập dân tộc”, cái khả năng
nối tiếp truyền thống của các Vua nước Nam nhất thiết phải ở đất nước
Nam, coi sự tồn tại của non sông quý hơn tròng mắt của chính họ.
Cái
tinh thần bất khuất ấy, còn hay chăng?
Còn
hay chăng, tinh thần dân tộc của những người đã đổ máu đểcắm
ngọn cờ hồng lên thành Hà Nội sáu mươi lăm năm trước, những cảm tử quân đã ôm
bom ba càng vào mùa đông năm 1946 với lời thề “Quyết tử cho tổ quốc quyết
sinh”?
Nếu
những anh hùng vô danh ấy có linh hồn, hẳn các linh hồn ấy giờ đây đang nức
nở.
Nếu những hiển linh của các vua xưa có thể cất lời, thì lời đầu
tiên họ nói sẽ là “Lũ người này đã phản bội lại dân tộc, bọn sâu
bọ này đã bôi nhọ mặt chúng
ta!”
Ngày Hội Ngàn năm Thăng Long diễn ra vào đúng ngày 1 tháng 10, thằng mù cũng biết đó chính là ngày Quốc khánh Trung
Quốc. Tại sao lại là con số
này? Tại sao có sự lựa chọn này? Vô ý chăng? Nhầm nhỡ chăng? Mất trí nhớ
chăng?
Cứ
coi như Bộ trưởng Bộ Văn hoá dốt nát thì trên đầu ông ta còn mười một người
trong bộchính trị. Không lẽ cả mười một người này mắc chứng mất trí nhớ? Không
lẽ cả mười một người này mắc bệnh thiểu
năng?
Nếu để cho mười một kẻ thiểu năng đứng trên đầu trên cổ mình thì
dân Việt xứng đáng là các bệnh nhân của trại tâm thần, một trại tâm thần khổng
lồ chưa từng thấy mà trong đó các con bệnh bị tiêm thuốc ngủ liều cao liên miên nên đờ đẫn, không còn khả năng
nhận thức sự vật xung quanh. Nếu không, họ đã bị bán đứng cho Tầu, và tương lai
của họ, một tương lai không tránh được sẽ là bản sao lại sầu thảm của những
người dân Tây Tạng hoặc Tân Cương một khi họ bó tay trước lũ bán
nước.
Chọn ngày Quốc Khánh Trung Quốc để mở hội Ngàn năm Thăng Long là
một biểu tượng hai mặt.
1. Với triều đình Bắc Kinh chính phủ Hà Nội đã làm
bản tuyên bố: Thành Thăng Long cũng chỉ là một bộ phận trong lịch sử mẫu quốc,
nó phải được treo đèn kết hoa cùng một lần với đèn hoa của thủ phủ đại triều.
Một khi thủ đô của một quốc gia đã định vị nhưvậy, có nghĩa quốc gia ấy tự xác
nhận danh tính chư hầu một cách công khai. Sự kiện này là bản giao kèo bộc lộ
lòng trung thành vô hạn và vô điều kiện của đám hàng thần Hà Nội.
2. Với dân chúng, đây cũng là lời tuyên bố
thẳng thừng: Chúng tao bất chấp lịch sử, chúng tao có toàn quyền định đoạt vận
mệnh đất nước. Kẻ nào chống lại, kẻ đó sẽ bị tiêu
diệt.
Chọn ngày quốc khánh Trung Hoa để mở hội Ngàn năm Thăng Long là
bằng chứng hiển nhiên để mảnh vải rách cuối cùng che thân chế độ cộng sản rơi
xuống. Họ đã trở thành kẻ bán nước, công khai hoá hành vi bán nước của
mình.
Nếu như năm 1945, cha anh họ là các anh hùng giải phóng dân tộc thì giờ đây, trái lại, họ là
những tên phản tặc, sỉ nhục của tổ tiên,chẳng những cắt đất, cắt biển dâng
cho giặc mà còn đương nhiên ném bùn lên lịch sử. Người Việt Nam ta có câu
“hổ phụ sinh cẩu tử”. Mà bọn người này, không những là những con “cẩu tử” mà còn
là “cẩu ghẻ”, “cẩu sida”.
Những người cầm quyền Hà Nội thừa thông minh để hiểu rằng
họ là những con cẩu ghẻ. Rằng trong dòng máu của bất cứ người Việt
nào cũng lưu cữu một thành tố có tên gọi “chống ngoại xâm”, mà thứ ngoại xâm
thống trị lâu dài nhất, tàn độc nhất, để lại các kinh nghiệm đau thương sâu đậm
nhất trong kí ức là “giặc phương Bắc”.
Cuộc
thực dân hoá của Pháp 100 năm chỉ là cơn bão chóng qua so với thời kì bắc thuộc
của giặc Tầu. Họ biết rằng bất cứ kẻ nào phản lại truyền thống đấu tranh dân
tộc, kẻ đó mất chỗ đứng trong lòng dân chúng. Ngày hôm trước còn được tung hô
hoàng đế, hôm sau đã biến thành “Thằng chó săn, thằng phản tặc, phường bán
nước”.
Đó là trường hợp vua Lê Chiêu Thống đã phải chịu do hành vi bán
nước của ông ta. Còn câu ca “Nguyễn Ánh cõng rắn về cắn gà nhà” mãi mãi là bài
học lịch sử tố cáo tội ác của kẻ đặt lợi ích dòng họ trên quyền lợi dân tộc. Giờ
đây, nhà cầm quyền Hà Nội biết rằng họ đã bị đẩy sang bên kia đường biên, họ rơi
vào cùng một bè lũ với Lê Chiêu Thống và Nguyễn
Ánh.
Để đặt tên cho họ một cách rõ ràng và chính xác, tôi xin nhại lại
câu “cõng rắn về cắn gà nhà” của các cụ xưa mà rằng nhà cầm quyền Hà Nội giờ đây
là bọn “dẫn hổ về thịt dê nha“
DẪN
HỔ VỀ THỊT DÊ NHÀ.
Tại
sao lại là hổ và dê?
Hổ, vì vương triều phương
Bắc bây giờ mạnh hơn thực dân Pháp năm xưa nhiều lần, để so sánh một cách chính
xác thì phải dùng hình ảnh con hổ chứ không thể là con
rắn.
Dê, vì nhìn lại bản đồ, bạn
đọc sẽthấy rằng toàn bộ bán đảo Đông Dương có thể ví như một con dê mà Tây
nguyên chính là phần sống lưng con dê đó. Một khi con hổ Trung Hoa cắm được móng vuốt
lên chính giữa lưng con dê này, coi như số mạng con dê đã nằm trong hai hàm răng
của nó.
Đế quốc Trung Hoa sẽ trải rộng khắp châu Á. Việt, Miên, Lào sẽ trở thành các tỉnh
thành khác nhau của Trung Hoa, “công đầu” này thuộc về ai nếu không là nhà cầm
quyền Hà Nội, kẻ dựng lên công trình bauxite Tây
nguyên?
Bauxite ư? Trò lừa
đảo!
Thiếu gì các quặng bauxite rải rác khắp miền Bắc Việt Nam , tại
sao không là Lào Cai, Yên Bái hay Cao Bằng mà lại là Tây Nguyên? Vả chăng, khai
thác bauxite để làm gì? Kiếm tiền chăng? Dối trá! Biết bao bài báo đã phân tích
chán chê lợi hại về khai thác bauxite, kể cả các tài liệu trên
thế giới cũng công bố rộng rãi tác hại của nó, mà vụ gần đây nhất là
Vùng bùn đỏ Hungaria. Còn có thể nói thêm được điều gì khi mà sự bán nước hiển
nhiên đã bầy ra trước mặt dân chúng, giữa thanh thiên bạch nhật?
Nhà cầm quyền Hà Nội hoàn toàn có ý thức về hành vi bán nước
của họ, bởi con tính của họ là trở thành một thứ “Thái thú Tô Định hiện
đại”, được hưởng đủ phần xôi thịt của Bắc
triều.
Còn
Việt Nam biến thành một tỉnh nào đó của Trung Quốc, mang tên Quảng Việt, Quảng
Nam, Quảng Lạc. . . họ không cần quan tâm.
Họ biết rõ rằng hành động của họ là đi ngược lại lợi ích của nhân dân, biết rằng
không người Việt nào cam tâm làm nô lệ cho Tầu, rằng kinh nghiệm đau đớn của tổ
tiên luôn luôn sống trong ý thức lẫn vô thức dân tộc, thế nên họ chủ trương đàn
áp dân chúng, họ chủ trương dùng bàn
tay sắt để bóp nghẹt cổ những ai muốn nói lời phản kháng. Không phải ngẫu
nhiên mànăm 2009, thứ trưởng bộ nội vụ Nguyễn Văn Hưởng tức
Trầnđã công khai dọa nạt những người trí thức Việt Nam vào dịp viện
IDS của tiến sĩ Nguyễn Quang A tuyên bố giải tán.
Ông nghị Trần nói rằng “Ở Việt Nam đảng độc
quyền lãnh đạo nên không thể có phản biện. Phản biện tức là phản động. Các anh
muốn phản biện hả? Nhà tù đang còn nhiều chỗ lắm. Nhưng chúng tôi cũng không cần
đến nhà tù, chúng tôi có các phương tiện hữu hiệu hơn. Tai nạn xe
cộ bây giờ tổ chức rất dễ dàng. Còn một biện pháp rẻ hơn và nhàn nhã
hơn: đầu độc. Các anh uống cà phê rồi khi về đến nhà thì cứng đơ ra mà chết.
Những bài bản này thế giới sử dụng đã lâu, chúng tôi cũng không thua kém họ. . .
”
Những
lời lẽ này nói lên điều gì nếu chẳng phải sự công khai triệt để của tính tội
phạm và tư cách chó? Một chính thể không còn lý do chính đáng để tồn tại thì chỉ
có thể duy trì bằng bạo lực, chỉ có thể sử dụng bọn tội phạm, bọn sát nhân, bọn
cặn bã xã hội, tóm lại, bọn chó giữ nhà.
Không còn lý tưởng, không còn đạo đức, ngập chìm trong tham lam,
truỵ lạc, con người trượt từ chữ NGƯỜI sang chữ CON.
Bác
chúng em
Vào những năm 1989, 1990, tôi có vinh hạnh làm quen và gặp
gỡông Lê Giản, người công an đầu tiên của Việt Nam, người lãnh đạo bộ máy cảnh
sát từ những năm đầu cách mạng. Ông Lê Giản đích thực là “Người công an nhân
dân, từ nhân dân mà ra, do dân và vì
dân”.
Tôi
hiểu vì sao cuộc kháng chiến thành công. Kháng chiến thành công vì có những
người như ông Lê Giản.
Nhưng ông Lê Giản đã chết và“Người công an nhân dân”cũng đã chết
theo. Cái chết này xảy ra từ từ với thời gian, một cái chết âm thầm, nhưng không
phải là vô hình vô ảnh.
Tôi
chứng minh:
Cách đây ngót ba thập kỉ, khi những lượt hoa quả đầu tiên
từ phương bắc tràn vào nước ta, các phòng phân tích thuộc Bộ Nội
vụ đã báo cáo lên bộ chính trị rằng các thứ hoa quả này đều tẩm
formaldéhyde (thuốc ướp xác chết) vô cùng độc hại cho người tiêu dùng vì nó phá
huỷ mô liên kết của các tế bào và là tác nhân gây ra bệnh ung
thư.
Bộ chính trị ra lệnh cấm phổ biến sự thực trên vì “sợ mất lòng
nước bạn”.
Các sĩ quan công an chỉ có thể ngăn cấm chính vợ con họ và rỉ tai
những người thân cận nhất (anh em ruột, cha mẹ vợ chẳng hạn), đối với người ngoài, họ tuyệt đối tuân thủ mệnh lệnh cấp trên. Tuyệt đối im lặng. Tuyệt
đối thản nhiên nhìn đồng bào mình ăn thứ đồ ăn nhiễm độc, biết chắc chắn rằng
ngày một ngày hai họ sẽ ung thư và sẽ chết vì bệnh đó.
Tính kỉ luật của đám sĩ quan này mới cao thượng làm sao(!) Và cao
thượng làm sao, những kẻ ngồi quanh bàn họp bộ chính trị, những bậc lương đống của triều
đình, chịu trách nhiệm chăn dắt dân đen, đàng hoàng ra lệnh cấm rò rỉ sự thật
vào tai dân chúng, bỏ mặc mấy chục triệu người bị đầu độc và chết dần chết
mòn!
Đối
với tôi, con đường bán mình cho giặc của chế độ Hà Nội đã khởi sự từ ngày ấy. Và
ngày ấy cũng là cái mốc đánh dấu sựchuyển
biến chất lượng này: từ người công an nhân dân, công an đã trở thành kẻ quay lưng lại với
nhân dân.
Ba thập kỉ đã qua, những kẻ quay lưng lại với nhân dân đã trượt
không ngừng trên con dốc, để
trở thành
kẻ thù của nhân dân.
Bây
giờ, gương mặt nào là gương mặt đích thực của công an? Người hùng bảo vệ dân hay
đám chó giữ nhà cắn cổ dân để bảo vệông
chủ của nó?
Hãy xem lại các hình ảnh đưa lên internet năm 2008 về vụ nông dân
bị cướp đất biểu tình ở Sài Gòn. Những người dân cầy gầy gò xơ xác, đa phần là
người già và phụ nữ, từ các tỉnh Tiền Giang, An Giang, Bến Tre, Long An, Bình
Thuận đổ đến trước văn phòng Quốc hội 2 với các khẩu hiệu “Trả đất cho dân”,
“Chống cửa quyền, tham nhũng”. Những người dân ấy đã bị đám công an và dân phòng
béo múp vì bia rượu, mặt hằm hằm sát khí đối xử ra sao? Mấy thế
kỉ đã qua nhưng hình ảnh bọn người này vẫn là bản sao chính xác bọn
nha lại mà Nguyễn Du đã mô tả trong Truyện Kiều:“Đầy nhà một lũ ruồi xanh”
và“Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi”.
Gần
đây nhất, hãy nhìn hình ảnh anh Nguyễn Ngọc Quang, một giáo dân ở Định Quán,
tỉnh Đồng Nai vì tham gia đấu tranh cho dân chủ mà bị công an Đà Lạt ba lần tổ
chức tai nạn xe cộ để kẹp suýt chết.
Tôi tự hỏi, có lúc nào những người công an này tự vấn lương tâm?
Tại sao họ không dùng sức lực, dùng khả năng hung bạo mà họ sẵn có để giết những
tên giặc Tầu, lũ dã nhân tàn sát những người dân đánh cá Thanh Hoá?
Nếu
là những người mà nghề nghiệp đặt trên bạo lực, bản năng hiếu chiến mạnh mẽ, tại
sao họkhông dùng khả năng đó để tiêu diệt ngoại xâm mà lại đi đàn áp những sinh
viên yêu nước biểu tình đòi Trường Sa, Hoàng Sa trước sứ quán Tầu? Tại sao? Vì
họ thiếu trí khôn hay vì họ là những kẻ mù loà, óc não bị khô cứng trong một
cuộc sống mà ngoài việc tuân theo mệnh lệnh cấp trên không còn khả năng nghĩ đến
điều gì khác ?
Vì
chưa từng là công an, nên tôi dành những câu hỏi ấy cho họ trảlời.
Tôi chỉ nêu lên nhận xét thứ hai, nhận xét khi tôi nhìn tấm ảnh đoàn biểu tình đòi mạng người
xảy ra tại thị xã Bắc Giang ngày 25 tháng 7 năm nay.
Nhiều
người biết rằng, ngày 23 tháng 7, hai công an huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang đã
đánh chết anh Nguyễn Văn Khương, 21 tuổi, quê quán tại huyện Việt Yên vì tội
danh không đội mũ bảo hiểm. Ngày 25 tháng 7, gia đình anh Khương đã chở xác
chàng trai này lên thị xã Bắc Giang đòi đền mạng. Dân chúng xông lênủng
hộ gia đình nạn nhân, con số lên đến hàng ngàn người, làm thành một cuộc biểu tình rầm
rộ chưa từng có trong lịch sử tỉnh Bắc Giang, mà theo bài phỏng vấn,
các cụ già đã nói rằng còn đông hơn ngày theo Việt Minh cướp chính quyền năm Ất
dậu.
Trong sự kiện này, tôi chú ý đến một chi tiết: công an đưa xe cứu
hoả mang vòi rồng đến trấn áp dân chúng, nhưng trước khí thế căm hờn của đám đông, công an bỏ chạy, hàng chục người dân trèo
lên xe đứng. Hiện tượng đó chứng tỏ không phải lúc nào công an cũng tê liệt vì
mù loà, luôn hành động như đám robot hoặc lũ chó berger.Trong lúc nguy khốn,
họ đã tính toán và đã chọn con đường bỏ chạy để thoát
thân.
Có lẽ, con tính của họ cũng đơn giản thôi. Không phải công an nào
cũng phú quý vinh hoa như ông nghị Nguyễn Văn Hưởng. Đa phần những người lính quèn chỉ đủ
sức nuôi một vợ thôi mà để nuôi cô vợ này với hai, ba đứa con kèm theo cuộc sống
của họ cũng không phải là “thiên đường nơi hạ giới”. Nếu máu đổ ra mà chỉ
để bảo đảm cuộc sống ấy thì đó là một cuộc đổi chác ngu xuẩn. Thêm nữa, lớp lính
bây giờ tương đối trẻ, họ biết chữ nên không hoàn toàn bị bưng bít thông
tin, họ hiểu được số phận của đám công an ra sao khi các cuộc cách mạng dân chủ
xảy ra ở Nga, ở Tiệp, ở Hung, ở Đức, và ở Ukraina mới rồi.
Thêm nữa, dù hổ thẹn hay cố tình bưng bít lương tâm, nơi thầm kín
nhất của con tim, họ cũng hiểu rằng chết vì một lý tưởng cao
cả thì đó là cái chết xứng đáng không làm hổ thẹn cho con cháu, chết
chỉ vì miếng cơm thì đó là cái chết của con chó gác sân mà khi dân chúng nổi
lên, họ sẽ lấy bắp cầy phang vỡ sọ hoặc dùng câu liêm cắt
cổ.
Khi lòng dũng cảm và tinh thần hào hiệp không còn nữa, cái còn lại
là sự tính toán vị kỉ của mỗi con người. Sự vị kỉ này cũng có mặt tốt của nó, nó là rào cản
để chủ nghĩa cuồng tín không thể đặt chân vào mảnh sân của mỗi căn nhà.
Một người công an, nếu chưa mất toàn bộ sự sáng suốt, ắt phải biết
tính toán họ được bao nhiêu và mất bao nhiêu, liệu số lương bổng họ được có
trang trải nổi phần tiêu phí cho đám tang của họ và nuôi nổi cô vợ với lũ con
còn lại, hay sự hy sinh của họ chỉ để làm nặng thêm túi tiền các quan lớn, khiến các quan thêm rửng
mỡ để đi hiếp trẻ con (như ông chủ tịch kiêm phó bí thư tỉnh Hà Giang tên Nguyễn Trường
Tộ và các ông khác chưa bị lộ mặt), hay máu họ đổ xuống chỉ để đổi
lấy các hộp kem đắt tiền nhằm bổ dưỡng làn da mịn màng cho các mỹ nhân của quan lớn (như đám mèo
cái đang vờn quanh rốn ông nghị Nguyễn Văn Hưởng)? Vân vân và vân vân. . .
Sự
tính toán luôn có lợi cho con người. Bởi thánh nhân thường hiếm mà kẻ trục lợi
thường nhiều nên không thể đòi hỏi tất cả mọi người đều xả thân vì đất nước. Tuy
nhiên, nếu không là thánh nhân thì họ cũng là dân Việt.
Là dân Việt, họ phải hiểu rằng truyền thống chống Tầu là dòng máu
sôi sục liên tục chảy trong tim dân tộc này. Bất cứ kẻ bán nước nào, sớm hay
muộn, trước hay sau cũng sẽ nằm trước mũi súng của nhân dân.
Dân
Việt :
Ai
là dân Việt?
Phải chăng đó là tộc người duy nhất trong hàng trăm tộc Việt (Bách Việt) xưa
kia sống ở phía nam sông Dương Tử còn giữ lại được bản sắc mà chưa bị đồng hoá
như chín mươi chín tộc Việt
kia?
Phải
chăng vì sự cứng đầu này mà đất Việt luôn luôn là con mồi trong tâm thức Bắc
triều?
Ngoài các lý do về nhu cầu bờ biển với các hải cảng, nhu cầu
khoáng sản, còn một nhu cầu thầm kín nữa mà quan lại phương Bắc không nói ra, đó
là nhu cầu đồng hoá nốt cái phần còn lại của Bách Việt.
Niềm kiêu hãnh Đại quốc là ở đó. Mối bực mình của Đại quốc cũng là
ở đó. Một khi họ đã thâu tóm, đã chiếm lĩnh, đã áp đặt nền văn hoá và chữ Hán
lên chín mươi chín tộc Việt kia, lẽ nào còn cái tộc cuối cùng họ phải chịu
thua?Ở thế thượng phong mà mấy ngàn năm nay chưa nuốt trọn hòn xôi Việt Nam,
mảnh đất cỏn con, dường như là một “vết thương lòng, một sự tự ái” mà vua chúa
Trung Hoa không chịu được.
Cách đây vài năm, ai đó từng nói với tôi rằng “Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch là địch thủ, nhưng về chính
sách đối với Việt Nam thì bọn họ sẽ ngồi cùng một
bàn”.
Đó
là một nhận định sáng suốt.
Năm trước, ông bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc tiến hành cuộc
điều tra dư luận xem bao nhiêu phần trăm dân chúng ủng hộ xâm chiếm Việt Nam . Theo công bố của ông ta thì con số này
lên đến trên 90%. Cứ cho rằng Trung Quốc là một nước cộng sản nên dân chúng còn
sợ hãi, họ phải tuân theo thượng cấp nên có thể trừ đi 20 phần trăm, phần còn
lại vẫn là trên 70 phần trăm. Và điều này là sự thật không ai có thể chối
bỏ.
Năm nay đã là năm 2010, thế kỉ 21,
Trung Quốc không còn sống dưới vương triều họ Mao, không còn phải đổi xác người
thân cho nhau để chén thịt. Kinh tế phát triển, các phương tiện kĩ thuật phát
triển, trình độ văn hoá được nâng cấp, sách báo lan tràn trong các đô thị, không
thể cho rằng dân Trung Quốc hoàn toàn bị dắt mũi bởi họ ngu dốt, bởi thiếu thông
tin, bởi sợ hãi nhà cầm quyền, ngược lại, họ đang dương dương tự đắc vì là dân
của Cường quốc số 2 trên thế giới. Vậy thì, cái “hòn xôi Việt Nam chưa nuốt
được” kia không chỉ làm ngáng họng đám cầm quyền mà cũng còn làm ngứa ngáy
cổhọng
vô số dân đen phương Bắc, một mặc cảm có mẫu số chung.
Vì lý do nào mà bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc làm cuộc điều tra này? Đó là một trò chơi
ngẫu nhiên hay là sự thăm dò có chủ
định?
Vì lý do nào mà trên các site internet Trung Quốc tung ra hàng
loạt bài chửi bởi, nhục mạ “lũ chó
Việt Nam , phải đánh bọn chúng. Lũ chó Việt Nam, lần này chúng ta sẽ thanh toán
lịch sử”, và công bố một cách chi
tiết chương trình thôn tính Việt Nam trong ba mươi mốt ngày, phần còn lại của
bán đảo được quy định là một tuần, tóm lại là chương trình con hổ Trung Quốc
nuốt trọn con dê Đông Dương?
Liệu nhà cầm quyền phương Bắc có thể ngang ngược làm những điều ấy
chăng nếu như chính quyền Hà Nội còn là một chính quyền độc lập mà không
tự nguyện biến mình thành đám gia nô cho vương triều Đại
Hán?
Tôi
dành những câu hỏi ấy cho bạn đọc trả lời.
Tôi chỉ xin nhắc họ rằng, chúng ta là tộc người cuối cùng sống sót mà không bị đồng hoá
thành người Hán. Tổ tiên chúng ta đã đấu tranh không mệt mỏi
để chống lại sự áp đặt của Bắc triều, bởi họ đã nhìn thấy sự đánh mất
bản diện, sự lụi tàn của 99 tộc Việt kia.
Để
tồn tại và được là chính mình, tổ tiên ta vừa chống chọi vừa lùi xuống phương
Nam . Lịch sử của dân tộc Việt tóm gọn trong câu này: “ Nam
tiến”!
Nam
tiến, nam tiến và nam tiến!
Cuộc Nam tiến thứ nhất khởi sự dưới
triều Lê, từ năm 1428 đến năm 1527.
Kể từ đây, cuộc khai khẩn và chinh phạt tiếp tục không ngưng nghỉ. Từ Thăng Long
các đoàn quân xưa vượt qua đèo Ngang, sau lưng họ là những đoàn nông dân và thợ
thủ công vào phá rừng, bạt núi, kiến tạo ruộng đồng và lập làng xây ấp. Rồi tiến
đến châu Ô, châu Rí. Rồi, từ đèo Ngang vượt qua đèo Hải Vân là chặng đường thứ
hai. Cứ thế mà hành trình này tiếp tục cho đến mũi Cà Mau.
Nam tiến, đó là sự nghiệp dựng nước của tổ tiên
ta.
Bây giờ, chúng ta không còn cơ hội để tiếp tục sự nghiệp của họ. Chúng ta không thể Nam tiến.
Trước mặt chúng ta đã là biển. Chúng ta tiến đi
đâu?
Người
Việt chỉ còn cách tồn tại cuối cùng là giữ lấy đất đai,
đất đai ấy là xương máu của cha ông ngàn đời tích tụ lại, đất đai ấy là nơi cắt
rốn chôn rau nhưng cũng là thành luỹ mà họ có thể nương tựa vào để duy trì cuộc
sống cho mình và cho các thế hệ mai sau.
Để giữ được non sông, để có thể là người Việt mà không trở thành đám thiểu số khiếp nhược của một
vương quốc khác, chúng ta không thể
tiếp tục dung dưỡng một chính quyền bán nước,
một chính
quyền đã ngang nhiên cắt đất, cắt biển cống cho phương Bắc, đã nhục nhã biến
ngọn cờThăng Long ngàn năm thành một mảnh vải vụn xén ra từ cái váy hồng Bắc
Kinh.
Chúng ta không thể bảo vệ được Tổ quốc nếu tiếp tục nuôi giữa lòng dân tộc mình
một con rắn độc, cũng như Vua An Dương Vương xưa đánh mất non sông vì trót đẻ ra
và trót yêu thương đứa con gái phản tặc có tên là Mỵ Châu. Với tất cả các hành
vi nhục nhã mà họ đã làm, chế độ Hà Nội giờ đây đã chính thức trở thành một thứ
Mỵ Châu.
Tuy nhiên, Mỵ Châu xưa là một người đàn bà xinh đẹp nhưng ngu dốt,
kẻ luỵ tình nông nổi nên tội bán nước của cô ta còn được người đời khoan dung.
Tại đền thờ Cổ Loa có hai tượng đá, tượng đá ngoài sân là biểu tượng Mỵ Châu nằm
gục mặt xuống đất mà bất cứ ai đi qua cũng phải đạp một cái lên lưng và nhổ một
bãi nước bọt để trừng phạt “con Mỵ Châu bán nước”. Còn tượng đá trong đền, tựa
như một người đàn bà cụt cổ phủ vải đỏ thì lại được hương khói do lòng đồng cảm
với “Mỵ Châu khờ dại và lụy tình”.
Dân
Việt vốn không cuồng tín, họ phân biệt rõ ràng mọi sự, bên kia chữ lý còn đọng
chữ tình.
Nhưng nàng Mỵ Châu ngây thơ, khờ dại đã chết từ mấy ngàn năm
trước, còn chính quyền Mỵ Châu bây giờ không một chút khờ dại mà cũng chẳng luỵ
tình ai, nó chỉ luỵ cái túi tiền của chính nó. Mọi tính toán của nó chỉ nhằm tu
tạo, xây đắp quyền lợi bản thân, cũng như con thú chỉ có một đam mê duy nhất là
liếm cho mượt bộ lông của chính nó mà
thôi.
Mỵ Châu ngày nay là một con đĩ già trơ trẽn, trần truồng nằm dạng
háng sẵn cho phương Bắc.
Người dân Việt phải chém cụt đầu con đĩ ấy, trước khi nó kịp trao
hết nỏ thần vào tay giặc nếu chúng ta không muốn lặp lại
sốphận
bi thảm của An Dương Vương.
Dân tộc Việt không thể làm được điều ấy, nếu quân đội không đứng
lên cùng với họ.
Quân
đội, những người lính của nhân dân, các anh còn ngủ đến bao
giờ?
DƯƠNG
THU HƯƠNG
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Phản Hồi